Sáng kiến kinh nghiệm Tạo hứng thú học tập môn Hóa học bằng cách liên hệ thực tế

I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI :

Môn Hóa học ở trường phổ thông nếu không có những bài giảng và phương pháp hợp lí phù hợp với thế hệ học trò dễ làm cho học sinh thụ động trong việc tiếp thu, cảm nhận.Trước tình hình đó, Hóa học phải đổi mới phương pháp dạy học đã và đang thực sự là yếu tố quyết định hiệu quả giờ dạy. Một trong những yếu tố để đạt giờ dạy có hiệu quả và tiến bộ là phát huy tính thực tế.

Có những vấn đề Hóa học giúp học sinh giải thích những hiện tượng trong tự nhiên, tránh việc mê tín dị đoan, thậm chí hiểu được những dụng ý khoa học hóa học trong những câu ca dao – tục ngữ mà thế hệ trước để lại và có thể ứng dụng trong thực tiễn đời sống thường ngày chỉ bằng những kiến thức rất phổ thông mà không gây nhàm chán, xa lạ; lại có tác dụng kích thích tính chủ động, sáng tạo, hứng thú trong môn học.

Trong việc dạy môn hoá học ở trường trung học, người giáo viên phải có vốn kiến thức về thực tế sâu, rộng, có khả năng gắn bài giảng với thực tế, tạo ra được những giờ học sinh động, nâng cao sự hiểu biết và kích thích sự ham mê học tập của học sinh.

 

doc16 trang | Chia sẻ: duycoi179 | Lượt xem: 5345 | Lượt tải: 4Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Tạo hứng thú học tập môn Hóa học bằng cách liên hệ thực tế", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 là SiO2, khi cho dung dịch HF vào thì có phản ứng :
 SiO2 + 4HF → SiF4 + 2H2O
Ví dụ 3 : Khi dạy về bài LƯU HUỲNH (ở lớp 10), sau khi học xong tính chất hóa học của lưu huỳnh tác dụng với kim loại, giáo viên có thể liên hệ thực tế như sau :
- GV : Tại sao khi đánh rơi nhiệt kế thủy ngân thì không được dùng chổi quét mà nên rắc bột S lên trên ?
- HS : Thủy ngân là kim loại ở dạng lỏng, dễ bay hơi và hơi thủy ngân là một chất độc. Vì vậy, khi làm rơi nhiệt kế thủy ngân nếu như ta dùng chổi quét thì thủy ngân sẽ bị phân tán nhỏ, làm tăng quá trình bay hơi làm cho quá trình thu gom khó khăn. Ta phải rắc bột S lên những chỗ có thủy ngân, vì S có thể tác dụng với thủy ngân tạo thành HgS dạng rắn và không bay hơi.
	Hg + S ® HgS↓
Quá trình thu gom thủy ngân cũng đơn giản hơn.
Ví dụ 4 : Khi dạy bài MỘT SỐ HỢP CHẤT QUAN TRỌNG CỦA KIM LOẠI KIỀM, sau khi học xong tính chất của NaHCO3, giáo viên có thể liên hệ như sau :
- GV : Vì sao muối NaHCO3 được dùng để chế thuốc đau dạ dày ?
- HS : Trong dạ dày, có chứa dung dịch HCl. Người bị đau dạ dày là người có nồng độ dung dịch HCl cao làm dạ dày bị bào mòn. NaHCO3 dùng để chế thuốc đau dạ dày vì nó làm giảm hàm lượng dung dịch HCl có trong dạ dày nhờ phản ứng : 
	NaHCO3 + HCl ® NaCl + CO2 + H2O
Ví dụ 5 : Khi dạy về bài PEPTIT VÀ PROTEIN (ở lớp 12), sau khi học xong phần tính chất của protein, giáo viên có thể liên hệ thực tế như sau
- GV : Giải thích vì sao khi nấu canh cua thì có gạch cua nổi lên ? Khi nấu trứng thì lòng trắng trứng kết tủa lại ?
- HS : Vì trong những trường hợp đó có xảy ra sự kết tủa protit bằng nhiệt, gọi là sự đông tụ. Một số protit tan trong nước tạo thành dung dịch keo, khi đun nóng sẽ bị kết tủa.
Ví dụ 6 : Khi dạy về bài AXIT CACBOXYLIC (ở lớp 11), giáo viên có thể liên hệ thực tế như sau : 
- GV : Vì sao khi bôi vôi vào chỗ ong, kiến đốt sẽ đỡ đau ? (Giáo viên có thể cung cấp cho học sinh thông tin : trong nọc ong, kiến, nhện có axit HCOOH)
- HS : Do trong nọc ong, kiến, nhện có axit hữu cơ tên là axit fomic (HCOOH). Vôi là chất bazo nên trung hòa axit làm ta đỡ đau.
	2HCOOH + Ca(OH)2 ® (HCOO)2Ca + 2H2O
Ví dụ 7 : Khi dạy về bài NHÔM VÀ HỢP CHẤT CỦA NHÔM, sau khi học xong tính chất của muối nhôm sunsat, giáo viên có thể liên hệ thực tế như sau :
- GV : Vì sao phèn chua có thể làm trong nước ? (Câu này nếu học sinh không giải thích được thì giáo viên phải diễn giải cho học sinh hiểu)
- HS : Phèn chua là muối sunfat kép của nhôm và kali ở dạng tinh thể ngậm nước :
	K2SO4.Al2(SO4)3.24H2O
	Phèn chua không độc, có vị chua, ít tan trong nước lạnh nhưng tan nhiều trong nước nóng. Khi tan trong nước, phèn chua sẽ bị thủy phân và tạo thành Al(OH)3 ở dạng kết tủa keo lơ lửng trong nước :
	Al2(SO4)3 ® 2Al3+ + 3SO42-
	Al3+ + H2O ® AlOH2+ + H+
	AlOH2+ + H2O ® Al(OH)2+ + H+
	Al(OH)2+ + H2O ® Al(OH)3 + H+
	Al2(SO4)3 + 3H2O ® 2Al(OH)3 + 3H2SO4
	Chính những hạt Al(OH)3 kết tủa dạng keo lơ lửng ở trong nước này đã kết dính với các hạt bụi bẩn, các hạt đất nhỏ để trở thành hạt đất to hơn, nặng hơn và lắng xuống. Vì vậy, mà nước trở nên trong hơn.
Ví dụ 8 : Khi dạy về bài AMIN (ở lớp 12), sau khi học xong tính bazo yếu của amin giáo viên có thể liên hệ thực tế như sau :
- GV : Tại sao khi nấu canh cá người ta thường nấu canh chua ?
- HS : Bởi vì chất chua (axit lactic có trong nước dưa, axit axetic có trong dấm, axit citric có trong chanh...) rất có duyên với cá. Nó nâng cao hương vị của món canh chua cá. Mặt khác, nó còn hạn chế mùi tanh của canh khi ăn. Vì trong chất tanh của cá có chứa hỗn hợp các amin như : đimêtyl amin, trimetyl amin. Hai amin trên có tính chất bazo yếu. Trong các chất chua dùng để nấu cá đều có các axit hữu cơ chúng có phản ứng với các amin có tính bazo yếu trong cá tạo thành muối do đó sẽ giảm hay làm mất vị tanh của cá.
Ví dụ : CH3COOH + (CH3)2NH ® CH3COOH2N(CH3)2
c) Liên hệ thực tế sau khi đã kết thúc bài học. Cách nêu vấn đề này có thể tạo cho học sinh căn cứ vào những kiến thức đã học tìm cách giải thích hiện tượng ở nhà hay những lúc bắt gặp hiện tượng đó, học sinh sẽ suy nghĩ, ấp ủ câu hỏi vì sao lại có hiện tượng đó ?
Ví dụ 1 : Sau khi học xong bài PHÂN BÓN HÓA HỌC (ở lớp 11). Để tạo cho học sinh ở khu vực làm nông nghiệp có thể kiểm nghiệm trong đời sống, giáo viên có thể liên hệ thực tế như sau : 
- GV : “ Lúa chiêm lấp ló đầu bờ,
	 Hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên”
	Câu ca dao mang hàm ý khoa học hóa học như thế nào ?
- HS : Câu ca dao nhắc nhở người làm lúa : Vụ chiêm khi lúa đang trổ đòng đòng mà có trận mưa rào, kèm theo sấm chớp thì sẽ rất tốt và cho năng suất cao sau này. 
- GV : Em hãy giải thích câu ca dao trên ?
- HS : Do trong không khí có ~ 80% khí N2 và ~ 20% khí O2, khi có sấm chớp (tia lửa điện) sẽ tạo điều kiện cho N2 hoạt động :
	 N2 + O2 2NO
Sau đó : 2NO + O2 ® 2NO2
Khí NO2 sẽ tan vào trong nước mưa :
	4NO2 + O2 + 2H2O ® 4HNO3
	HNO3 ® H+ + NO3-
- GV : Nhờ hiện tượng này, hàng năm làm tăng 6 – 7kg N cho mỗi mẫu đất. Ngày nay, người ta đã điều chế Ure [(NH2)2CO] từ không khí để chủ động bón cho cây trồng. Trong nền nông nghiệp hiện đại, cần phải dùng nhiều phân bón và nhiệm vụ của ngành công nghiệp hóa chất “hướng về không khí đòi lương thực” là càng lớn.
Ví dụ 2 : Sau khi học xong bài TÍNH CHẤT CỦA KIM LOẠI (ở lớp 12), giáo viên có thể liên hệ thực tế như sau :
- GV : Tại sao nhôm lại được dùng làm dây dẫn điện cao thế ? Còn dây đồng lại được dùng làm dây dẫn điện trong nhà. 
	- HS : Tuy đồng dẫn điện tốt hơn nhôm nhưng nhôm (khối lượng riêng của nhôm là 2,70g/cm3) nhẹ hơn đồng (khối lượng riêng của đồng là 9,1). Do đó, nếu như dùng dây đồng làm dây dẫn điện cao thế thì phải tính đến việc xây các cột điện sao cho chịu được trọng lực của dây điện. Việc làm đó không có lợi về mặt kinh tế. Còn trong nhà việc chịu trọng lực của dây dẫn điện không ảnh hưởng lớn lắm. Vì vậy, ở trong nhà thì ta dùng dây dẫn điện bằng đồng.
Ví dụ 3 : Sau khi học xong bài OZON, giáo viên có thể liên hệ thực tế như sau : 
- GV : Vai trò của ozon trong đời sống và công nghiệp như thế nào ?
- HS : Suy nghĩ trả lời
- GV củng cố : Ozon có khả năng “cải tạo” nước thải, có thể khử các chất độc như : phenol, hợp chất xianua, nông dược, chất trừ cỏ, các hợp chất hữu cơ gây bệnh có trong nước thải và ozon có thể tác dụng với các ion kim loại (sắt, thiếc, chì, mangan) biến nước thải thành nước sạch vô hại.
	Trên tầng cao khí quyển 10 – 30km quanh trái đất, ozon tồn tại thành một tầng khí quyển riêng, có khả năng hấp thụ các tia tử ngoại phát ra từ mặt trời. Vì các tia tử ngoại làm cho con người, động thực vật bị đột biến gen, gây bệnh nan y Gần đây do công nghiệp phát triển, các nhà máy xuất hiện khí thải, động cơ phản lực thải vào khí quyển một lượng bụi và khí ô nhiễm, thì ozon lại góp phần oxi hóa chất gây ô nhiễm, cũng chính vì vậy mà tầng ozon bị mỏng dần. Trong vòng 50 năm gần đây, lượng ozon bị thủng và gây ra không ít hiện tượng như : bão, lũ lụt, cháy rừng, bệnh nan y
Ví dụ 4 : Sau khi học xong bài TINH BỘT (ở lớp 12), giáo viên có thể liên hệ thực tế như sau :
- GV : Vì sao ban đêm không để nhiều cây xanh trong nhà ?
- HS : Ban ngày, do có ánh sáng mặt trời nên cây xanh tiến hành quá trình quanh hợp, hấp thụ CO2 trong không khí và giải phóng khí oxi
 6nCO2 + 5nH2O (C6H10O5)n + 6nO2 ↑
Nhưng ban đêm, do không có ánh sáng mặt trời, cây xanh không quang hợp, chỉ có quá trình hô hấp nên cây hấp thụ khí O2 và thải ra khí CO2, làm cho phòng thiếu khí O2 và có nhiều khí CO2.
Ví dụ 5: Sau khi học xong bài MỘT SỐ HỢP CHẤT QUAN TRỌNG CỦA KIM LOẠI KIỀM THỔ, giáo viên có thể liên hệ thực tế như sau :
- GV : Tục ngữ Việt Nam có câu : “Nước chảy đá mòn”, câu này mang hàm ý của khoa học hóa học như thế nào ?
- HS : Trong đá, thông thường chủ yếu là CaCO3. Vì trong nước có lẫn khí CO2 nên sẽ xảy ra phản ứng : 
	CaCO3 + CO2 + H2O ® Ca(HCO3)2
	Khi nước chảy sẽ cuốn Ca(HCO3)2 trôi theo, qua thời gian đá sẽ bị mòn dần.
- GV (Có thể giải thích bổ sung thêm nguyên nhân khác )	: Trong đá, thông thường chủ yếu là CaCO3 nên trong nước sẽ tồn tại phương trình điện li : 
	CaCO3 Ca2+ + CO32- (*)
	Khi nước chảy sẽ cuốn theo các ion Ca2+, CO32-, theo nguyên lí chuyển dịch cân bằng thì cân bằng (*) chuyển dịch theo chiều chống lại sự giảm nồng độ Ca2+, CO32- (chiều thuận) nên theo thời gian nước chảy qua đá sẽ mòn dần.
Ví dụ 6 : Sau khi học xong bài ANKAN, giáo viên có thể liên hệ thực tế như sau :
- GV : Làm thế nào để biết dưới giếng có khí độc (CO), hoặc nhiều khí thiên nhiên (CH4...) và không có khí oxi, để tránh khi xuống giếng bị ngạt ?
- HS : Khi xuống giếng phải đeo bình oxi. Còn muốn biết có khí độc (CO), hoặc nhiều khí thiên nhiên (CH4...) và không có khí oxi chỉ cần lấy dây buộc một con gà, vịt.... thả xuống nếu nó chết thì chứng tỏ có khí độc.
- GV : Trong các giếng đào đặc biệt nhiều vùng đồng bằng thường có khí độc CO, CH4... và không có khí O2. Mà người dân chúng ta có thói quen xuống giếng. Đã có nhiều trường hợp tử vong một lúc nhiều mạng người vì gặp khí độc (CO) gây đông máu, CH4 ... và không có oxi gây ngạt trong tíc tắc, làm người xuống cứu cũng chết.
Ví dụ 7 : Sau khi học xong bài IOT (ở lớp 10), giáo viên có thể liên hệ thực tế như sau :
- GV : Nêu cách lấy dấu vân tay của tội phạm lưu trên các vật ở hiện trường chỉ sau một vài phút thí nghiệm :
	Lấy một tờ giấy sạch, ấn một ngón tay vào mặt giấy rồi nhấc ra sau đó đem phần giấy có dấu vân tay đặt trên miệng ống nghiệm có đựng cồn iot, dùng đèn cồn để đun nóng phần đáy ống nghiệm. Đợi cho khí màu tím thoát ra (I2) từ ống nghiệm thấy phần giấy có vân tay dần hiện lên rõ nét (màu nâu). Nếu bạn cất tờ giấy có vân tay đi mấy tháng sau làm tương tự cũng vẫn có hiện tượng như trên
	Do đầu ngón tay có chất béo, dầu khoáng, mồ hôi, khi ấn tay vào giấy sẽ lưu lại một phần trên giấy mặc dù mắt thường không nhận ra. Các chất này khi gặp hơi iot cho màu nâu (chú ý hơi iot rất độc không được ngửi).
Ví dụ 8 : Sau khi học xong bài MỘT SỐ HỢP CHẤT QUAN TRỌNG CỦA NATRI, giáo viên có thể liên hệ thực tế như sau :
- GV : Vì sao khi luộc rau muống nên cho vào trước một ít muối ăn NaCl ?
- HS : Do nhiệt độ sôi của nước ở áp suất 1at là 1000C, nếu ta thêm NaCl thì lúc đó làm cho nhiệt độ của nước muối khi sôi là > 1000C. Do nhiệt độ sôi của muối cao hơn của nước nên rau chín nhanh hơn, thời gian luộc rau không lâu nên rau ít mất vitamin. Vì vậy, khi đó rau muống sẽ mềm hơn và xanh hơn.
Ví dụ 9 : Sau khi học xong bài CACBON (ở lớp 11), giáo viên có thể liên hệ thực tế như sau :
- GV : Vì sao khi cơm khê người ta thường cho vào nồi cơm một mẩu than củi ?
- HS : Do than củi xốp có tính hấp phụ, nên hấp phụ được mùi khét của cơm làm cho cơm đỡ mùi khê.
d) Liên hệ thực tế thông qua những câu chuyện ngắn có tính chất khôi hài, gây cười có thể xen vào bất cứ thời gian nào trong suốt tiết học. Hướng này có thể góp phần tạo không khí học tập thoải mải. Đó cũng là cách kích thích niềm đam mê học hóa.
Ví dụ 1 : Khi dạy bài HÓA HỌC VÀ VẤN ĐỀ MỐI TRƯỜNG (ở lớp 12), sau khi học xong phần “Ô nhiễm không khí”, giáo viên có thể kể câu chuyện hài :
- GV : 
	+ Một nhà thông thái thuyết trình ở hội nghị bảo vệ môi trường : “Tại sao người ta không nghĩ đến việc xây dựng thành phố ở nông thôn nhỉ ? Ở đó không khí trong lành, lo gì bị ô nhiễm”
+ Cả hội trường cười ầm lên.
Ví dụ 2 : Khi dạy về bài SẮT (ở lớp 12), giáo viên có thể vào bài bằng câu chuyện :
Hồi đầu thế kỉ XIX, các nhà bác học đã phát hiện ra sắt có trong máu người dưới dạng huyết cầu tố (hemoglobin). Một sinh viên khoa Hóa đã làm gì khi nghe cô gái mình yêu hỏi anh ta lấy gì làm bằng chứng cho tình yêu đang chảy cuồn cuồn trong cơ thể anh ta ?
Anh ta đã quyết định tặng người yêu dấu một chiếc nhẫn bằng  sắt, nhưng không phải bằng sắt thông thường mà bằng sắt lấy từ chính máu của mình ! Cứ định kì lấy máu ra, chàng trai thu được một hợp chất mà từ đó tách sắt ra bằng phương pháp hóa học.
Nhưng chiếc nhẫn đã không bao giờ được đeo trên tay cô gái như một bằng chứng tình yêu bởi  nó chưa được làm ra thì chàng trai đã chết vì bị mất máu, cho dù lượng sắt lấy ra khỏi cơ thể chàng chưa tới  3 gam !
Các chàng trai, cô gái ngày nay vẫn nhớ câu chuyện này. Nhưng chẳng ai chứng tỏ tình yêu bằng cách này nữa, cho dù thật cảm động.
Ví dụ 3 : Khi học về bài BENZEN (ở lớp 11), ở cấu trúc của phân tử benzen, giáo viên có thể kể cho học sinh nghe một giai thoại về Kekule :
Một lần, Kekule ngồi trên xe buýt ở London và nghĩ mãi mà chưa tìm ra được một cấu tạo nào tương ứng với tính chất của benzen. Ông mơ màng nhìn ra ngoài xe và chợt thấy trên cành cây ở công viên có sáu con khỉ, con nọ đánh đu vào chân con kia thành vòng sáu cạnh. Trong khi nô đùa, có lúc các chú khỉ bám với nhau bằng cả hai chân hai tay, có lúc lại chỉ bằng một cặp tay chân. Một tia chớp nảy ra trong đầu ông :
- “Phải chăng sáu nguyên tử cacbon trong benzen cùng liên kết với nhau giống như sáu chú khỉ con vui vẻ kia ?”
Kekule đã xác định được cấu trúc vòng của benzen và xây dựng lí thuyết các hợp chất thơm nhờ  các chú khỉ.
Ví dụ 4 : Khi học về bài VẬT LIỆU POLIME, giáo viên có thể kể cho học sinh giai thoại “Phát minh do  ngủ quên” (khi dạy về nilon) :
Một đêm Carothers – nhà hóa học Mĩ, sau nhiều ngày đêm làm việc căng thẳng, định chớp mắt ít phút. Nhưng  ông đã ngủ liền tới sáng. Tỉnh dậy, ông hốt hoảng lo cho tất cả công sức thí nghiệm : có lẽ đã tan thành mây khói ? Ai ngờ, khi vừa nhấc chiếc đũa thủy tinh ở trong bình phản ứng lên, ông thấy chiếc đũa mềm nhũn và kéo theo một hỗn hợp có dạng sợi nhỏ mỏng manh óng ánh rất đẹp. Đó là sợi tổng hợp poliamit đầu tiên trên thế giới – sợi nilon ngày nay.
Ví dụ 5 : Khi học bài CHẤT GIẶC RỬA, ở phần “Xà phòng”, giáo viên có thể kể câu chuyên hài sau :
Mẹ : Tại sao con nghịch xà phòng làm bẩn hết nước của mẹ ?
Con : Không phải con nghịch đâu! Thấy nước bẩn, con lấy xà phòng rửa nước đấy. Như là mẹ rửa tay bẩn của con bằng xà phòng ấy mà!
e)Tiến hành tự làm thí nghiệm qua các hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống hằng ngày sau khi đã học bài giảng. Cách nêu vấn đề này có thể làm cho học sinh căn cứ vào những kiến thức đã học tìm cách giải thích hay tự tái tạo lại kiến thức qua các thí nghiệm. Giúp học sinh phát huy khả năng ứng dụng hóa học vào đời sống thực tiễn.
Ví dụ 1 : Sau khi học xong bài TINH BỘT (ở lớp 12), giáo viên có thể giới thiệu thí nghiệm “Hồ tinh bột tác dụng iot” để học sinh có thể tự làm thí nghiệm kiểm chứng ở nhà.
* Cách làm : Lấy một ít cồn iot (mua ở nhà thuốc tây) bôi lên quả chuối xanh và quả chuối chín. 
* Giải thích (dựa vào kiến thức đã học, học sinh sẽ tự giải thích được) : Do cồn iot là dung dịch của iot trong ancol etylic, iot gặp tinh bột (trong chuối xanh) tạo ra phức màu xanh. Nhưng nếu là chuối chín thì không có hiện tượng này (do chuối chín chuyển tinh bột thành đường glucozo).
Ví dụ 2 : Sau khi học xong bài SƠ LƯỢC VỀ MỘT SỐ KIM LOẠI (ở lớp 12), giáo viên có thể giới thiệu hiện tượng sau để học sinh có thể tự kiểm nghiệm trong cuộc sống.
* Cách làm : Khi có người bị cảm, ta có thể đánh cảm bằng dây bạc và khi đó dây bạc bị hóa đen. Để dây bạc trắng sáng trở lại, ta sẽ ngâm vào nước tiểu.
* Giải thích : Người bị cảm trong cơ thể sinh ra những hợp chất dạng sunfua (S2-) vô cơ hay hữu cơ đều có tính độc. Khi đánh cảm bằng bạc, do S có ái lực mạnh với bạc nên xảy ra phản ứng tạo bạc sunfua (Ag2S) kết tủa màu đen. Do đó chất độc được loại ra khỏi cơ thể và cũng làm cho dây chuyền thành màu đen,
	Ag + S2- ® Ag2S
Trong nước tiểu có NH3, khi ngâm dây bạc vào thì sẽ có phản ứng :
	Ag2S + 4NH3 ® 2[Ag(NH3)2]+ + S2-
Nên Ag2S bị hòa tan, bề mặt dây bạc lại trở nên sáng bóng.
Ví dụ 3 : Sau khi học xong bài ANKIN (ở lớp 11), giáo viên có thể giới thiệu thí nghiệm vui “Đốt nước đá cháy” để học sinh có thể tự làm thí nghiệm ở nhà.
* Cách làm : Ta đặt sẵn vài mẫu canxi cacbua (đất đèn), rồi lấy một ít nước đá bỏ vào ống bơ thấp và rộng miệng rồi bật diêm đốt trên mặt ống bơ. Thật kì lạ! Nước đá bốc cháy.
* Giải thích : Khi bỏ nước đá vào CaC2 sẽ có tác dụng với nước giải phóng khí C2H2 :
	CaC2 + 2H2O ® C2H2 + Ca(OH)2
	Khí C2H2 thoát lên mặt nước đá, khi đốt nó sẽ cháy trông giống hệt nước đá cháy vậy.
	2C2H2 + 5O2 ® 4CO2 + 2H2O
Ví dụ 4 : Sau khi học xong bài MỘT SỐ HỢP CHẤT QUAN TRỌNG CỦA KIM LOẠI KIỀM THỔ, giáo viên có thể giới thiệu thí nghiệm sau để học sinh có thể tự làm để kiểm nghiệm.
* Cách làm : Lấy vôi sống (CaO) cho vào nước, rối thả ngay một quả trứng vào, trứng sẽ chín.
* Giải thích : Khi vôi sống gặp nước sẽ xảy ra phản ứng :
	CaO + H2O ® Ca(OH)2 + Q
	Nhiệt lượng tỏa ra rất lớn đến nổi làm cho nước sôi. Do vậy, sau khi cho vôi vào nước rồi thả một quả trứng, trứng sẽ chín.
	f) Để nâng cao kiến thức hóa học thực tế, giáo viên có thể phối hợp với nhà trường tổ chức các hoạt động ngoại khóa cho học sinh như đưa các em đi tham quan các nhà máy sản xuất, các khu công nghiệp Qua đó, các em sẽ có cơ hội tham khảo, bổ sung các kiến thức còn trống và tìm hiểu xác thực hơn tác động của hóa học đến đời sống của chúng ta. 
III. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI :
Sau khi áp dụng một số phương pháp mở rộng kiến thức thực tế trong bài giảng hóa học vào các tiết dạy, tôi thấy đã đạt được kết quả khả quan : 
+ Lớp học sinh động, sôi nổi, giúp nâng cao hứng thú học tập của các em.
+ Chất lượng bài giảng được nâng lên rõ rệt : học sinh dễ tiếp thu và nhớ bài lâu hơn.
+ Giúp các em phát huy tính tích cực, chủ động trong học tập .
+ Phát triển năng lực chú ý, óc tò mò khoa học.
IV. ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG :
	Qua thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy một vài điểm cần lưu ý sau :
1. Về phía giáo viên :
- Để thực hiện tốt, người giáo viên cần nghiên cứu kỹ bài giảng, xác định được kiến thức trọng tâm, tìm hiểu, tham khảo các vấn đề thực tế liên quan phù hợp với học sinh. Hình thành giáo án theo hướng phát huy tính chủ động của học sinh, phải mang tính hợp lí và hài hòa.
2. Về phía nhà trường :
- Nhà trường cần bổ sung thêm sách tham khảo cho giáo viên ở thư viện.
- Nhà trường cần bổ sung thêm một số hóa chất và dụng cụ cho đầy đủ để việc thực hành thí nghiệm được tốt hơn.
- Cần tạo điều kiện giúp đỡ cho một số giáo viên biết sử dụng công nghệ thông tin.
- Nhà trường tạo điều kiện để cho giáo viên tổ chức Câu lạc bộ Hóa học vui, các cuộc giao lưu kiến thức sẽ hình thành hứng thú cho học sinh một cách hiệu quả.
V. TÀI LIỆU THAM KHẢO :
Sách giáo khoa Hóa học lớp 10, 11, 12.
Phương pháp giảng dạy môn hóa học ở trường THPT (Trịnh Văn Biều)
Hóa học và ứng dụng (Tạp chí của hội hóa học Việt Nam)
Hóa học vui (Nguyễn Xuân Trường) - NXB khoa học kỹ thuật Hà Nội.
Người viết
Nguyễn Thị Phương Dung
Sở GD & ĐT Đồng Nai Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
Đơn vị : THPT Trần Phú Độc lập – Tự do – Hạnh phúc 
Long Khánh, ngày tháng..năm 2011
PHIẾU NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Năm học : 2010 – 2011
Tên sáng kiến kinh nghiệm : TẠO HỨNG THÚ HỌC TẬP MÔN HÓA HỌC BẰNG CÁCH MỞ RỘNG KIẾN THỨC THỰC TẾ.
Họ và tên tác giả : Nguyễn Thị Phương Dung
Đơn vị (Tổ) : Hóa – Sinh
Lĩnh vực nghiên cứu :
Quản lý giáo dục Phương pháp dạy bộ môn : Hóa học T
Phương pháp giáo dục Lĩnh vực khác : ’
1. Tính mới :
- Có giải pháp hoàn toàn mới 	’ 
- Có giải pháp cải tiến, đổi mới từ giải pháp đã có 	’ 
2. Hiệu quả :
- Hoàn toàn mới và đã triển khai áp dụng trong toàn ngành có hiệu quả cao ’
- Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai áp dụng trong toàn ngành có hiệu quả cao. ’
- Hoàn toàn mới và đã triển khai áp dụng tại đơn vị có hiệu quả cao ’
- Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai áp dụng tại đơn vị có hiệu quả cao. ’
3. Khả năng áp dụng :
- Cung cấp tốt được các luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính sách :
	Tốt ’ 	Khá ’ 	Đạt ’
- Đưa ra các giải pháp khuyến nghị có khả năng ứng dụng thực tiễn, dễ thực hiện và dễ đi vào cuộc sống :
Tốt ’ 	Khá ’ 	Đạt ’
- Đã được áp dụng trong thực tế đạt hiệu quả hoặc có khả năng áp dụng đạt hiệu quả trong phạm vi rộng.
Tốt ’ 	Khá ’ 	Đạt ’
XÁC NHẬN CỦA TỔ CHUYÊN MÔN THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
 (Ký và ghi rõ họ tên) (Ký, ghi rõ họ tên và đóng dấu)

File đính kèm:

  • docsangkienkinhnghiem-org-82.doc
Sáng Kiến Liên Quan