Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh Lớp bốn

CƠ SỞ LÍ LUẬN

Miêu tả là lấy nét vẽ hay câu văn để biểu hiện các chân tướng của sự vật, giúp người nghe, người đọc hình dung được các đối tượng ấy. Văn miêu tả mang tính thông báo thẩm mỹ, giúp người đọc hình dung một cách cụ thể hình ảnh của sự vật thông qua những nhận xét tinh tế, những rung động sâu sắc thể hiện cảm xúc thẩm mỹ của người viết.

Với học sinh tiểu học, nhất là học sinh các lớp bốn, năm, việc hình thành và phát triển các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết là vô cùng quan trọng, được thực hiện ở tất cả các môn học và nổi bật nhất là ở môn Tiếng Việt. Do đó, việc dạy Tập làm văn ở tiểu học góp phần rèn luyện cho học sinh năng lực sử dụng tiếng mẹ đẻ, tạo điều kiện cho các em giao tiếp trong cuộc sống hàng ngày và học tốt các môn học khác. Chính những văn bản viết các em có được từ phân môn Tập làm văn đã thể hiện những hiểu biết thực tế, những kỹ năng sử dụng Tiếng Việt mà các em được học ở môn Tiếng Việt nói chung, phân môn Tập làm văn nói riêng và các môn học khác.

Mục tiêu của việc dạy học Tập làm văn ở lớp bốn là: Cung cấp, hướng dẫn cho học sinh biết lập dàn ý cho bài văn, viết được bài văn theo dàn ý đã lập có đủ 3 phần, lời văn trôi chảy, câu văn bước đầu có cảm xúc; biết nói, viết câu có dùng phép so sánh, nhân hóa; biết kiểm tra, rà soát lại bài viết về nội dung, cách diễn đạt, cách trình bày.

 (Theo chuẩn kiến thức kĩ năng cần đạt- QĐ số 16/2006/QĐ-BGDĐT ngày 5 tháng 5 năm 2006 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo)

 

doc15 trang | Chia sẻ: thuphuong25 | Lượt xem: 1570 | Lượt tải: 1Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh Lớp bốn", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 bản viết các em có được từ phân môn Tập làm văn đã thể hiện những hiểu biết thực tế, những kỹ năng sử dụng Tiếng Việt mà các em được học ở môn Tiếng Việt nói chung, phân môn Tập làm văn nói riêng và các môn học khác. 
Mục tiêu của việc dạy học Tập làm văn ở lớp bốn là: Cung cấp, hướng dẫn cho học sinh biết lập dàn ý cho bài văn, viết được bài văn theo dàn ý đã lập có đủ 3 phần, lời văn trôi chảy, câu văn bước đầu có cảm xúc; biết nói, viết câu có dùng phép so sánh, nhân hóa; biết kiểm tra, rà soát lại bài viết về nội dung, cách diễn đạt, cách trình bày.
 (Theo chuẩn kiến thức kĩ năng cần đạt- QĐ số 16/2006/QĐ-BGDĐT ngày 5 tháng 5 năm 2006 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo)
II. THỰC TRẠNG ĐỀ TÀI
1. Thuận lợi: 
- Nhà trường luôn quan tâm, chỉ đạo thực hiện công tác chuyên môn có hiệu quả, nâng cao tay nghề cho giáo viên. 
- Tổ chuyên môn đã tổ chức chuyên đề dạy học Tập làm văn lớp 4 và lớp 5. Giáo viên đều được trang bị đầy đủ sách giáo khoa, sách giáo viên, sách tham khảo, các phương tiện dạy học như máy chiếu để dạy bằng điện tử
- Đội ngũ giáo viên có năng lực, yêu nghề đã áp dụng phương pháp dạy học phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh linh hoạt và hiệu quả. Từ lớp 2, 3 học sinh được tập quan sát và trả lời câu hỏi để làm quen với văn miêu tả, đã biết cách luyện tập dưới sự hướng dẫn của giáo viên để tự chiếm lĩnh tri thức.
 - Đối tượng miêu tả khá gần gũi với học sinh nông thôn( cây bàng, con gà,). Đặc điểm tâm lí học sinh tiểu học có tâm hồn trong sáng, thơ ngây, giàu cảm xúc và sức sáng tạo.. Những đồ vật, con vật, cây cối là những người bạn thân thiết, gần gũi mà các em có thể tâm tư, chia sẻ tình cảm của mình. Đặc điểm tâm lí này thuận lợi để khơi gợi ở các em những cảm xúc miêu tả bất ngờ, thú vị, 
2. Khó khăn:
 Như ta đã biết, sản phẩm của TẬP LÀM VĂN là các ngôn bản ở dạng nói, dạng viết theo các dạng lời nói, kiểu bài văn do chương trình quy định. Sản phẩm của việc học văn miêu tả thường ở dạng viết. Năng lực viết chứng tỏ trình độ văn hoá, văn minh của một người, đối với học sinh, chứng tỏ tư duy logic, tư duy hình tượng đã phát triển ở một mức độ nhất định. Nhưng lên lớp 4, các em mới bắt đầu học cách lập dàn ý, dựng đoạn và viết thành bài văn hoàn chỉnh. Hơn nữa, khả năng ngôn ngữ của các em còn hạn chế, nhất là với học sinh ở các trường nông thôn trong địa bàn chúng tôi. Mỗi bài văn miêu tả hay lại đòi hỏi khả năng tưởng tượng và sử dụng ngôn ngữ diễn đạt thật sinh động. Thực tế cho thấy, đa số học sinh lớp 4 viết văn miêu tả chưa hay hoặc sắp xếp ý còn lộn xộn, lủng củng, hình ảnh trong bài văn chưa gợi tả, ít liên tưởng hoặc chỉ là sao chép một 1 cách sống sượng bài văn mẫu. Vậy nguyên nhân tại đâu? Đó là điều trăn trở của tôi cũng như các giáo viên khác trong khối.
III. BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT
Để khắc phục tình trạng trên và tổ chức tiết dạy-học Tập làm văn miêu tả có chất lượng hơn, phù hợp với học sinh đang dạy. Phương pháp và biện pháp rèn kĩ năng viết văn miêu tả là giúp cho các em:
1- Biết lập dàn ý cho bài văn cụ thể:
Dù đây là một yêu cầu rất thường xuyên nhưng trên thực tế lại có rất nhiều em không thể thực hiện được, có những em không biết lập dàn ý là làm cái gì, để làm gì. Bởi lẽ, ở những lớp dưới, các em không phải làm việc này, mà các em chỉ viết câu văn, đoạn văn bằng cách trả lời những câu hỏi cho sẵn hoặc dựa vào những gợi ý của thầy cô một cách đơn giản, ngắn gọn. Trong khi lên lớp Bốn thì việc lập dàn ý cho một đề bài cụ thể (loại bài miêu tả) là yêu cầu bắt buộc các em phải biết thực hiện, tự thực hiện để dựa vào đó mà hoàn chỉnh đoạn văn, bài văn.
Để giúp các em dễ dàng hơn trong việc tự lập dàn ý cho bài văn, khi dạy học các bài Cấu tạo của bài văn miêu tả (tả đồ vật, tả cây cối và tả loài vật), tôi chủ động giúp các em dựa vào nội dung phần Ghi nhớ trong sách giáo khoa, cùng xây dựng một dàn bài chung cho loại bài văn miêu tả đang học. Dàn bài chung này tôi sẽ ghi cố định ở một bảng phụ để làm cơ sở cho học sinh xây dựng dàn ý riêng cho mỗi bài văn miêu tả sau này. Dàn bài này cũng được sử dụng chung cho cả lớp trong các tiết Tập làm văn có yêu cầu viết một đoạn văn hay hoàn chỉnh một bài văn. 
Ví dụ: Khi dạy bài Cấu tạo của bài văn miêu tả con vật (sách giáo khoa lớp Bốn, tập hai, trang 112), sau khi giúp học sinh rút được nội dung ghi nhớ như trong sách giáo khoa, tôi sẽ chủ động bám vào nội dung phần ghi nhớ, dùng câu hỏi gợi ý, dẫn dắt cho các em nêu để xây dựng dàn bài chung cho bài văn miêu tả con vật: 
Mở bài: 
- Giới thiệu con vật sẽ tả:
- Để giới thiệu con vật sẽ tả, em cần giới thiệu những gì? (Tên con vật, nơi nó ở, lí do em thích nó,) 
Thân bài:
a) Tả hình dáng:
Mỗi con vật thường đều có những bộ phận nào? (đầu: Mắt, mũi, miệng (mõm, mỏ), tai, ; mình: thân, lưng, bụng, ngực,; chi: móng vuốt, cựa,; đuôi, cánh, .)
b) Tả thói quen sinh hoạt và một vài hoạt động chính của con vật:
- Thói quen sinh hoạt là những thói quen nào? (ăn, ngủ, đùa giỡn, ) 
- Những hoạt động chính của con vật là gì? Ví dụ? (con mèo: bắt chuột; con chó: giữ nhà, mừng chủ; )
Kết luận: Nêu cảm nghĩ đối với con vật:
+ Cảm nghĩ của em đối với con vật có thể là gì? (yêu, thích, thấy thiếu vắng khi đi đâu về mà không trông thấy nó, ); Em làm gì để thể hiện tình cảm của em đối với nó? (chăm sóc, bảo vệ, )
Hoặc, khi hướng dẫn học sinh làm bài tập 3 (Hãy viết một đoạn văn có chứa câu mở đoạn như sau: Chú gà nhà em đã ra dáng một chú gà trống đẹp.) của bài Luyện tập xây dựng đoạn văn miêu tả con vật (sách lớp Bốn, tập hai, trang 130), tôi sử dụng Dàn bài chung cho bài văn miêu tả con vật đã xây dựng, gợi ý cho các em có thể dựa vào nội dung Tả hình dáng ở phần thân bài trong dàn bài để hoàn thành bài tập. Như thế, các em sẽ dễ dàng chọn lựa những bộ phận nổi bật của con gà trống để miêu tả như: cái đầu, cái mào, cái mỏ, cặp mắt, bộ lông, đôi cánh, đôi chân, chiếc cựa, cái đuôi,
2- Biết chọn lựa, chắt lọc hình ảnh miêu tả: 
Môn Tập làm văn ở tiểu học có nhiệm vụ rất quan trọng là rèn kỹ năng nghe, nói, viết. Nhưng học sinh còn lúng túng không biết lắng nghe gì? Nói gì? Viết gì? Vì vậy, dạy học cho học sinh biết quan sát tìm ý để hình thành thói quen chuẩn bị bài tốt là một yêu cầu quan trọng khi làm văn. Muốn quan sát tốt, học sinh cần nắm được cách quan sát và những yêu cầu quan sát để làm văn. Cùng một đối tượng (Ví dụ cùng một con gà trống) nhưng mỗi cá nhân lại có sự cảm nhận riêng (có em thích màu sắc bên ngoài, có em thích dáng vẻ oai vệ, có em lại thích tiếng gáy, ). Giáo viên phải tôn trọng ý kiến của các em, không phê phán vội vàng, chủ quan, phải giúp học sinh tự tin trong học tập. Tuy nhiên, để miêu tả một đối tượng nào đó, giáo viên cần giúp các em biết quan sát đối tượng theo từng góc nhìn, từng thời điểm, biết cảm nhận và chọn “điểm nhấn” của đối tượng tạo ra nét riêng biệt trong bài văn của mình. Do vậy, để đảm bảo tính chân thực của bài miêu tả cần phải được bắt nguồn từ quan sát trực tiếp đối tượng miêu tả, kết hợp với kinh nghiệm sống, trí tưởng tượng của học sinh, phải thể hiện được tình cảm, cảm xúc thực của các em trước đối tượng miêu tả. Tính chân thực đòi hỏi phải có chi tiết thực, tả đúng bản chất của đối tượng miêu tả, thể hiện được những nét đẹp đẽ, đúng đắn trong tư tưởng, tình cảm của người học sinh khi bộc lộ thái độ của các em với đối tượng miêu tả. 
Để thực hiện những yêu cầu trên, tôi thường hướng cho học sinh thực hiện thật tốt từng bước:
+ Xác định cụ thể và chọn một đối tượng cần quan sát (đó là vật gì? hoặc con gì? hay cây gì?) 
+ Quan sát sự vật bằng các giác quan như thị giác, thính giác, khứu giác và cả xúc giác. Trước tiên là quan sát bao quát đối tượng và cảm nhận (nó đẹp, dễ thương, hoặc oai phong, hay dữ tợn,..), rồi quan sát từng bộ phận của đối tượng theo một trình tự nhất định (từ trên xuống dưới, từ trước ra sau, hoặc đầu, mình rồi đến chân, ) Quan sát thật kĩ những bộ phận của sự vật mà em thích thú, ấn tượng. Khi quan sát sự vật, các em cũng có thể trao đổi theo nhóm với nhau để tìm ra những đặc điểm của đối tượng một cách tốt nhất.
+ Kết hợp quan sát là ghi chép (ghi chép những điều quan sát được) và liên tưởng (liên tưởng để so sánh, nhân hóa sự vật)
Chẳng hạn, để giúp học sinh làm tốt bài tập 3 (Hãy viết một đoạn văn có chứa câu mở đoạn như sau: Chú gà nhà em đã ra dáng một chú gà trống đẹp.) của bài Luyện tập xây dựng đoạn văn miêu tả con vật (sách lớp Bốn, tập hai, trang 130), thì ở tiết học trước đó, tôi yêu cầu các em:
+ Chọn hoặc nhớ lại một con gà trống mà em đã gặp.
+ Quan sát (hoặc nhớ lại) và ghi lại các đặc điểm của từng bộ phận của nó. Chú ý ghi thật chi tiết những bộ phận nổi bật của con gà đó.
3- Biết chọn lựa, sử dụng từ ngữ giàu tính gợi tả, gợi cảm, nói-viết câu văn có dùng phép so sánh, nhân hóa phù hợp với đối tượng miêu tả: 
Việc dùng từ ngữ giàu hình ảnh, gợi tả, gợi cảm, các biện pháp so sánh, nhân hóa khi viết văn sẽ giúp cho câu văn, bài văn trở nên sinh động hơn, mượt mà hơn, ý tứ hơn và thu hút người đọc, người nghe hơn.
Như vậy, việc giúp các em biết tìm từ ngữ, ý văn hay, hình ảnh đẹp, phù hợp để miêu tả sự vật cụ thể là vừa giúp phát huy tốt năng lực của mỗi học sinh, vừa góp phần cung cấp ý văn, từ ngữ phù hợp cho những học sinh khác. 
+ Cùng với việc giới thiệu một số hình ảnh cụ thể cho học sinh quan sát, giáo viên có thể gợi ý cho mỗi học sinh tự chọn chi tiết cụ thể của đối tượng cần miêu tả, rồi tìm những từ ngữ, ý văn, câu văn, hình ảnh so sánh, nhân hóa mà mình cảm thấy phù hợp, hay có thể sử dụng để miêu tả chi tiết đó của đối tượng.
+ Lớp nhận xét, bình và chọn những từ ngữ, ý văn hay, hình ảnh đẹp, phù hợp.
+ Vận dụng chính những từ ngữ, câu văn, ý văn được lớp đánh giá cao theo ý thích của riêng mình đưa vào bài của mình, tạo ra nét riêng trong chính bài làm của mình.
Xin được tiếp theo ví dụ ở trên, (với bài tập 3 của bài Luyện tập xây dựng đoạn văn miêu tả con vật): Trước tiên, tôi giới thiệu cho các em hình ảnh hoặc videoclip về một số con gà trống cho các em chọn lựa và quan sát một con mà em thích. Tiếp đó là cùng với việc sử dụng Dàn bài chung của bài văn miêu tả con vật đã xây dựng (nội dung Tả hình dáng ở phần thân bài), tôi sẽ lần lượt hướng cho các em nêu các bộ phận tiêu biểu của con gà trống và những ý văn, câu văn, hình ảnh so sánh, nhân hóa mà mình cảm thấy hay, phù hợp, có thể sử dụng để miêu tả các bộ phận đó. Lúc này các em có thể kết hợp vừa quan sát trực tiếp hình ảnh giáo viên cung cấp, vừa dựa vào những điều mình đã ghi chép khi chuẩn bị ở nhà để thực hiện yêu cầu của thầy cô. Với những từ ngữ, ý văn các em nêu được, tôi gợi ý cho lớp cùng nhận xét, bình và chọn những từ ngữ, ý văn hay, hình ảnh đẹp, phù hợp rồi ghi nhanh lên bảng làm cơ sở cho các em chọn lựa, vận dụng chính những từ ngữ, câu văn, ý văn được lớp đánh giá cao theo ý thích của riêng mình để thực hiện yêu cầu của bài tập.
4- Biết diễn đạt câu văn (nói, viết) trọn ý, sắp xếp các ý, các câu văn lôgic; biết kiểm tra, rà soát lại bài viết về nội dung, cách diễn đạt: 
* Tập diễn đạt câu văn (nói, viết) trọn ý, sắp xếp các ý, các câu văn lôgic:
Các em sẽ biết tự diễn đạt câu văn trọn ý khi các em biết sắp xếp các từ ngữ thành câu văn đúng ngữ nghĩa, biết sắp xếp các câu văn thành đoạn văn lôgic, đúng chủ đề. Tuy nhiên, đây là việc làm rất khó, cần được tập luyện thường xuyên và khá mất thời gian, mà thời gian ở các tiết học Tập làm văn lại có hạn, vì vậy, bản thân tôi thường thực hiện không chỉ ở các tiết Tập làm văn mà ở cả các tiết học khác như Luyện từ và câu hay Chính tả. Với những bài tập có yêu cầu liên quan đến việc phải trình bày, sắp xếp các ý, câu văn lôgic, hoặc ở một số tiết Tập làm văn, tôi thường chủ động chuẩn bị các từ ngữ, câu văn theo chủ đề nhất định đủ dùng cho học sinh hoạt động theo dự kiến. Cho các từ ngữ, yêu cầu học sinh dùng những từ ngữ đó sắp xếp lại thành những câu văn hoàn chỉnh (hoặc dùng những câu văn sắp xếp thành đoạn văn) theo chủ đề mà giáo viên yêu cầu. Tiếp đó có thể tổ chức nhận xét, đánh giá, sửa chữa. Cần đánh giá, nhận xét trên sự sáng tạo của học sinh, tôn trọng ý tưởng của học sinh, không nhất thiết phải đúng theo mẫu ấn định sẵn. Tuy nhiên cũng cần phải điều chỉnh, sửa chữa nếu chưa phù hợp. Ngoài ra, ngay cả khi các em trả lời câu hỏi của thầy cô, của bạn bè hoặc khi yêu cầu các em trình bày một vấn đề nào đó, tôi đặc biệt chú trọng đến cách trình bày, diễn đạt của các em (nhất là với những học sinh yếu). Khi thấy học trò trình bày vấn đề lủng củng, không rõ ràng hoặc sử dụng từ ngữ không phù hợp, tôi sẽ nhận 
xét khéo và gợi ý, tập cho các em và cả các bạn khác cùng cân nhắc, diễn đạt lại vấn đề sao cho trôi chảy, rõ ràng, đủ ý, và dễ hiểu.
*Tập kiểm tra, rà soát lại bài viết về nội dung, cách diễn đạt, cách trình bày:
Đối với học sinh lớp Bốn thì đây là việc làm rất khó khăn, ít em tự thực hiện được. Việc tập cho các em biết tự kiểm tra, rà soát lại bài viết về cả nội dung và cách diễn đạt, cách trình bày là rất cần thiết, nó không chỉ giúp các em nâng cao khả năng làm văn, nâng cao chất lượng câu văn, đoạn văn, bài văn của các em mà còn giúp cho các em rèn luyện kĩ năng trình bày, diễn đạt vấn đề. 
Trong mỗi giờ Tập làm văn, nhất là văn viết, tôi hết sức chú trọng việc tập cho học sinh biết tự cân nhắc, trau chuốt câu văn, ý văn cho phù hợp. Khi các em hoàn thành bài tập, tôi thường tổ chức cho các em đọc lại bài, đối chiếu với yêu cầu của đề bài để kiểm tra xem nội dung bài làm đã đảm bảo chưa? Câu văn, ý văn đã rõ ràng, đủ ý chưa?...Thời gian đầu các em sẽ rất bỡ ngỡ, khó thực hiện, tôi tập cho cả lớp cùng thực hiện chung trên một vài bài, sau đó là cùng thực hiện trong nhóm, dần dần là mỗi cá nhân sẽ tự kiểm tra, rà soát trên bài làm của mình. Ngay trong quá trình các em làm bài, tôi cũng theo dõi, giúp các em tự nhận xét, kiểm tra, điều chỉnh kịp thời những chỗ chưa hay, chưa phù hợp, tập cho các em biết chú trọng đến cách diễn đạt sao cho đúng, đủ, rõ ý. 
5- Biết học tập từ ngữ, ý văn, hình ảnh hay khi làm văn:
 Nói cách khác là biết học tập, “trộm” những câu văn, ý văn mà mình đọc được của bạn bè, thầy cô hay ở đâu đó rồi biến nó thành ý riêng trong câu văn, bài văn của mình. Tôi khuyến khích các em tích cực đọc sách, báo hoặc những bài văn hay (văn mẫu) và ghi chép lại những chi tiết, hình ảnh mình thích vào một cuốn sổ tay. Sau đó sẽ chọn lựa một số câu và ghi ra giấy dán vào mục “Lời hay ý đẹp” ở lớp để giới thiệu cho các bạn khác cùng tham khảo. Chính bản thân tôi là người thường xuyên đọc những “lời hay ý đẹp” mà các em sưu tầm được để khi gặp trường hợp có thể vận dụng, “trộm” những từ ngữ, ý văn đó mà các em không nhớ, không biết vận dụng tôi sẽ chủ động gợi ý giúp các em nhớ lại, tập vận dụng vào bài của mình. Hoặc khi phát hiện các em biết học tập, bắt chước cách diễn đạt, cách dùng từ ngữ, ý văn của người khác (không sao chép), tôi sẽ động viên, khích lệ các em tiếp tục phát huy. Ngoài ra, tôi còn thường xuyên tổ chức cho các em nhận xét, đánh giá bài của bạn (cách dùng từ, đặt câu, ...) rồi rút kinh nghiệm, vận dụng vào bài của mình theo các bước:
+ Chọn đọc bài, câu văn của bạn và trao đổi, bàn bạc, suy nghĩ tìm ý hay, cách chỉnh sửa những ý chưa hay, chưa phù hợp.
+ Rút kinh nghiệm, học tập ở bài làm của bạn để bổ sung, chỉnh sửa bài làm của mình.
IV. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
Với những biện pháp như đã trình bày ở trên đã giúp cho cả giáo viên và học sinh tự tin, chủ động hơn trong các tiết học Tập làm văn (văn miêu tả). Các giờ Tập làm văn cũng trở nên nhẹ nhàng, sinh động hơn. 
Học sinh không còn lúng túng trong việc lập dàn ý cho mỗi bài văn; việc viết một đoạn văn, hay bài văn của các em trở nên dễ dàng hơn. Các em đã biết miêu tả một số đặc điểm của một sự vật cụ thể theo yêu cầu, biết viết câu văn đúng ngữ pháp, rõ ý; biết sử dụng những từ ngữ sát nghĩa, có tác dụng gợi tả, gợi cảm; bước đầu biết sử dụng biện pháp tu từ đơn giản khi viết văn. Lời văn, ý văn của các em không còn nặng tính liệt kê hay kể lể nữa. 
Nhờ vậy mà chất lượng phân môn Tập làm văn cũng như môn Tiếng Việt đã nâng lên rõ rệt. Xin trích dẫn vài số liệu thống kê kết quả khảo sát khả năng làm văn và kết quả kiểm tra định kì phân môn Tập làm văn của 42 học sinh ở lớp tôi chủ nhiệm như sau:
Năm học 2015-2016:
Kết quả khảo sát về khả năng làm văn:
Khả năng
Thời điểm khảo sát/Số học sinh đạt
Đầu 
năm học
Cuối học kì I
- Biết lập dàn bài, viết bài văn đủ 3 phần.
2
26
- Biết viết câu văn rõ ý, đúng ngữ pháp, dùng từ ngữ sát nghĩa.
4 
12
- Biết dùng từ ngữ có tác dụng gợi tả, gợi cảm, sử dụng biện pháp tu từ đơn giản.
0
4
Kết quả kiểm tra phân môn Tập làm văn:
Điểm
(Thang điểm 5)
Thời điểm kiểm tra/Số học sinh đạt
Khảo sát 
đầu năm học
Kiểm tra định kì cuối học kì I
4,5-5
4
10 
3,5-4
10
15 
2,5-3
11 
13 
2
8
2
<2
 9
2 
C. KẾT LUẬN
I. TÓM LƯỢC CÁC GIẢI PHÁP
 Để mỗi giờ dạy Tập làm văn đạt hiệu quả cao, người giáo viên phải biết sáng tạo, kết hợp hài hòa nhiều yếu tố. Hơn thế nữa, người giáo viên còn cần tận tâm với nghề, với bài dạy để tự rút kinh nghiệm sau mỗi tiết học. Để dạy văn thật tốt, trước tiên: Hãy suy nghĩ thật kĩ, dạy thật tốt các phân môn Tập đọc, Luyện từ và câu, Kể chuyện. Bởi chúng có tác động trực tiếp đến Tập làm văn. Nó giúp học sinh tích lũy vốn từ, hiểu và vận dụng từ, vận dụng những câu văn hay, đoạn văn hay của bài Tập đọc vào bài văn của các em.Mặt khác thông qua những bài văn hay, cần cho học sinh nhận xét cách sử dụng từ ngữ, các biện pháp nghệ thuật,từ đó giúp các em tích lũy được vốn kiến thức văn học. Hay trong giờ Luyện từ và câu, Hướng dẫn tự học tôi luôn hướng dẫn khuyến khích các em tìm cái hay(theo chủ đề), đặt câu văn giàu hình ảnh, phân tích từ, so sánh câu. Môn Tập làm văn quả là khó đối với học sinh. Bài Tập làm văn là tác phẩm văn học của các em.Tác phẩm này hay, dở còn phụ thuộc vào năng lực của mỗi em, kĩ năng giao tiếp, điều kiện sống của mỗi gia đình. Với lòng nhiệt tình, ý thức trách nhiệm, lòng yêu nghề, tôi đã khắc phục khó khăn, giúp học sinh lớp tôi ngày càng yêu thích Tập làm văn hơn và tôi thấy các em học văn thực sự hiệu quả.
Trên đây là một số biện pháp tôi đã thực hiện trong quá trình giảng dạy nhằm bồi dưỡng lòng say mê, yêu thích môn Tập làm văn cho học sinh lớp 4. Trong quá trình thực hiện, tôi đã đạt được một số kết quả khích lệ song không tránh được một số thiếu sót. Vậy tôi rất mong nhận được sự quan tâm, giúp đỡ và đóng góp chân thành của các cấp lãnh đạo, các đồng chí trong Ban lãnh đạo nhà trường, bạn bè đồng nghiệp để tôi giảng dạy ngày một tốt hơn, góp một phần công sức nhỏ bé của mình nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy của trường Tiểu học Châu Văn Liêm.
II. ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG
Sáng kiến này có thể áp dụng vào dạy phân môn TẬP LÀM VĂN (văn miêu tả) ở các lớp 4 và 5.
Giáo viên cần tìm hiểu kĩ, xác định, phân loại từng đối tượng học sinh, xếp chỗ ngồi xen kẽ, trong mỗi nhóm có đủ các dạng học sinh để tiện cho việc tổ chức các hoạt động học tập. Đồng thời, bản thân thầy cô giáo cũng cần tích cực tham khảo thêm nhiều tài liệu, chịu khó đọc sách báo để tự làm giàu thêm vốn từ, chất văn, áp dụng phù hợp vào từng ngữ cảnh cụ thể. 
Chuẩn bị hệ thống câu hỏi chu đáo, tranh ảnh, video clip phong phú nhưng gần gũi, phù hợp với học sinh. 
Thầy cô giáo cần hết sức tinh tế, nhạy bén, biết lắng nghe, kịp thời đưa ra hướng để giúp học sinh sửa chữa, trau chuốt câu, lời, ý văn.
Quá trình thực hiện mất nhiều thời gian, đòi hỏi giáo viên phải có sự kiên nhẫn, bền bỉ, cần phải thường xuyên lâu dài, kết hợp lồng ghép trong cả các phân môn, môn học khác. 
Cần giúp cho học sinh biết tự giác, chịu khó học hỏi, cũng như sẵn sàng chia sẽ, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ nên cũng đòi hỏi thầy cô giáo phải thường xuyên động viên, khích lệ và tổ chức nhiều phương pháp, hình thức dạy học, phát huy tối đa năng lực của học sinh, nhất là học sinh học tốt.
III. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Quyết định số 16/2006/QĐ-BGDĐT ngày 5 tháng 5 năm 2006 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.
	2. Tài liệu Bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên Tiểu học chu kì III (2003-2007), tập 2.	
Hậu Nghĩa, ngày 31 tháng 12 năm 2015
Người thực hiện
Mai Thị Trúc Giang

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_ren_ki_nang_viet_van_mieu_ta_cho_hoc_s.doc
Sáng Kiến Liên Quan