Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng giải bài tập dạng hỗn hợp các chất tính theo phương trình hoá học có vận dụng toán học

Trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá của đất nước hiện nay đòi hỏi con người phải có tri thức đạo đức đặc biệt phải có tính năng động sáng tạo biết làm chủ trong mọi lĩnh vực và biết ứng dụng những tri thức đã học vào thực tế để nâng cao chất lượng cuộc sống.

 Muốn tạo ra những thế hệ biết làm chủ công nghệ hiện đại ngày nay thì nhà trường có vai trò đặc biệt quan trọng, trong đó bộ môn hoá học có vai trò hết sức to lớn thực hiện mục tiêu đào tạo của nhà trường THCS. Môn học này cung cấp cho học sinh một hệ thống kiến thức phổ thông, cơ bản và thói quen làm việc khoa học, góp phần làm nền tảng cho việc giáo dục xã hội chủ nghĩa, phát triển năng lực nhận thức, năng lực hành động chuẩn bị cho học sinh học lên và đi vào cuộc sống lao động.

 Với mục tiêu chung đó thì môn Hóa học giúp cho học sinh được những mục tiêu cụ thể về kiến thức, kĩ năng, thái độ. Trong đó có kĩ năng biết giải bài tập hóa học.

Bài tập hoá học có vai trò rất lớn trong việc dạy học tích cực môn Hoá học. Ngoài ra bài tập hóa học là phương tiện để tích cực hoá hoạt động của học sinh ở mọi cấp học, bậc học, giúp học sinh hình thành kiến thức mới, kĩ năng mới và vận dụng tốt kiến thức.

 

doc26 trang | Chia sẻ: sangkien | Lượt xem: 2424 | Lượt tải: 4Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng giải bài tập dạng hỗn hợp các chất tính theo phương trình hoá học có vận dụng toán học", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
úng và điều chỉnh hoạt động kịp thời là một năng lực rất cần cho sự thành đạt trong cuộc sống mà nhà trường cần trang bị cho học sinh.
Theo hướng phát triển các phương pháp tích cực để đào tạo những con người năng động, sớm thích nghi với đời sống xã hội thì việc kiểm tra đánh giá không thể dừng lại ở yêu cầu tái hiện kiến thức, lặp lại các kỹ năng đã học mà phải khuyến khích trí thông minh, óc sáng tạo trong việc giải quyết những tình huống thực tế.
Từ dạy và học thụ động sang dạy và học tích cực, giáo viên không còn đóng vai trò đơn thuần là người truyền đạt kiến thức, giáo viên trở thành người thiết kế, tổ chức, hướng dẫn các hoạt động độc lập hoặc theo nhóm nhỏ để học sinh tự chiếm lĩnh kiến thức nội dung học tập, chủ động đạt các mục tiêu kiến thức, kỹ năng, thái độ theo yêu cầu của chương trình.
II.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN :
II.2.1 Kỹ năng giải bài tập tính theo phương trình Hoá học
“Rèn luyện kỹ năng giải bài tập tính theo phương trình Hoá học” là một vấn đề không mới, vấn đề này có thể được nhiều giáo viên, nhiều nhà giáo dục nghiên cứu đề cập đến song bản thân tôi nhận thấy bài tập tính theo phương trình hoá học, dạng bài hỗn hợp các chất có vận dụng toán học là vấn đề cần được phát hiện và được tiến hành thường xuyên, liên tục. Theo tôi việc nghiên cứu đề tài góp phần giúp cho giáo viên thấy rõ tầm quan trọng của việc rèn kĩ năng giải bài tập hoá học cho học sinh nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn hoá. Muốn rèn kĩ năng giải bài tập dạng hỗn hợp các chất tính theo phương trình hoá học có vận dụng toán giáo viên cần: 
+ Nắm vững các bước giải bài tập tính theo phương trình hoá học.
+ Nắm được một số nét riêng của loại bài tập tính theo phương trình hoá học dạng hỗn hợp các chất.
+ Biết vận dụng toán học vào hoá học.
+ Dựa trên khả năng tiếp thu của học sinh để phân loại bồi dưỡng học sinh cho phù hợp.
II.2.2 Tình hình thực tiễn về trình độ và điều kiện học tập của học sinh.
Xuất phát từ nhiệm vụ đào tạo của nhà trường là đào tạo thế hệ trẻ cho đất nước phát triển toàn diện về mọi mặt. Xuất phát từ nguyên lí của giáo dục “học phải đi đôi với hành”. Vì vậy trong quá trình dạy học tôi luôn chú trọng cung cấp đầy đủ chính xác kiến thức cho học sinh. Tuy nhiên trình độ kiến thức kĩ năng từng đối tượng học sinh trong lớp không giống nhau do đó tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng học sinh ngay từ đầu năm học, để từ đó phân loại đối tượng học sinh để tìm ra những phương án tối ưu sao cho phù hợp với từng đối tượng học sinh.
Khi chuẩn bị thực hiện đề tài qua quá trình nghiên cứu, tôi nhận thấy việc giải bài tập tính theo phương trình Hoá học của học sinh là rất yếu. Đa số học sinh cho rằng hoá học là môn khó học, các em rất sợ và hầu như rất ít học sinh nắm vững kiến thức cũng như kỹ năng hoá học. Vì thế các em rất thụ động trong các tiết học và không hứng thú bộ môn này, ngoài ra nhà trường còn thiếu nhiều trang thiết bị, hoá chất để phục vụ cho việc học tập của học sinh. Địa bàn nông thôn rộng lớn, nhà dân thưa thớt nên việc trao đổi lẫn nhau trong học tập là rất khó khăn.
II.2.3 Chuẩn bị vận dụng đề tài. 
Để áp dụng các phương pháp trong dạy học tôi đã thực hiện một số khâu quan trọng sau: 
Xác định mục tiêu, dự đoán những tình huống có thể xảy ra trong quá trình rèn luyện kỹ năng giải bài tập dạng hỗn hợp các chất tính theo phương trình Hoá học.
Tìm hiểu tình hình học sinh, tạo niềm tin cho học sinh về khả năng hoạt động tìm tòi của các em, đặt ra yêu cầu, nhiệm vụ cho học sinh để các em chủ động sẵn sàng tham gia các hoạt động một cách tích cực, tự giác và sáng tạo. 
Chuẩn bị đồ dùng dạy học : trong phương pháp rèn kĩ năng giải bài tập dạng hỗn hợp các chất tính theo phương trình hoá học có vận dụng toán học chủ yếu dựa vào bảng phụ là chính.
II.2.4 Qua đánh giá phân loại học sinh tôi tập trung nghiên cứu và thực hiện những biện pháp cụ thể sau:
II.2.4.1. Xác định kiến thức có liên quan.
Để giải quyết loại bài tập này học sinh cần phải nắm vững các bước giải bài toán tính theo phương trình hóa học. Sau đó học sinh phải biết cách lập và giải hệ phương trình toán học.
II.2.4.2. Giáo viên đưa ra ví dụ cụ thể tiến hành giải song song với giải bài toán cổ.
Cùng với việc giải song song như vậy giúp học sinh biết cách giải toán Hoá học có vận dụng Toán học.
II.3. VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
II.3.1. Kiến thức học sinh cần nắm.
II.3.1.1. Học sinh phải nắm vững các bước giải bài tính phương trình hoá học ở bài 22, Tiết 22, 23 theo phân phối hoá học lớp 8 đó là .
1. Chuyển đổi khối lượng hoặc thể tích chất khí thành số mol chất.
2. Viết phương trình hoá học.
3. Dựa vào phương trình hoá học để tìm mol chất tham gia hoặc chất tạo thành.
4. Chuyển đổi số mol chất thành khối lượng (m = n x M ) hoặc thể tích khí ở ĐKTC ( V = 22,4 x n )
Học sinh nắm chắc các bước và làm thành thạo các bài tập đơn giản có như vậy thì khi đưa bài tập hỗn hợp các chất vào học sinh mới vận dụng được.
II.3.1.2. Học sinh biết cách giải hệ phương trình bậc nhất hai ẩn số.
- Giải hệ phương trình bằng phương pháp cộng đại số.
- Giải hệ phương trình bằng phương pháp thế.
- Giải hệ phương trình bằng máy tính bỏ túi 
II.3.2. Ví dụ cụ thể.
II.3.2.1: Ví dụ 1: Bài toán 1: Hoà tan hoàn toàn 3,6g Magie vào dung dịch HCl dư theo sơ đồ:
Mg + HCl MgCl2 + H2.
a, Em hãy lập phương trình hoá học.
b. Tính thể tích khí Hiđro thu được đo ở ĐKTC.
Giải:
Số mol Mg tham gia phản ứng:
Phương trình hoá học:
Mg 	+ 2HCl 	MgCl2 	+ H2
	 1	 2	 1	 	 1
	0,15 mol	 	 0,15 mol
	Thể tích khí H2 sinh ra ở ĐKTC.
	II.3.2.2.Ví dụ 2: Bài toán 2. Hoà tan hoàn toàn 5,4 gam Nhôm vào dung dịch HCl dư theo sơ đồ:
	Al + HCl AlCl3 + H2.
	a, Em hãy lập phương trình hoá học.
	b. Tính thể tích khí Hiđro thu được ở ĐKTC.
	Giải:
	Số mol Nhôm tham gia phảm ứng:
a. Phương trình hoá học.
	2Al 	+ 	6 HCl 	 	2AlCl3 	+ 	3H2.
	2	 6	 2	 3
	0,2 mol	 0,3 mol
	Thể tích khí H2 thoát ra ở ĐKTC.	
	Đây là 2 bài đơn giản mà hầu hết học sinh đều giải đúng theo các bước tiến hành nêu ở trên. ( 2 ví dụ trên đều tương tự như nhau – chỉ thay đổi kim loại phản ứng ).
	Từ hai bài toán đơn giản trên nhằm hình thành và rèn luyện kĩ năng giải dạng bài toán hỗn hợp các chất đó là:
	- Trộn hỗn hợp hai kim loại có khối lượng ở bài toán 1 và 2.
	- Lấy kết quả của khí Hiđro thoát ra (thu được) ở ĐKTC của bài toán 1 và 2. Từ đó hình thành bài toán hỗn hợp sau.
	II.3.2.3. Ví dụ 3: Bài toán 3: Hoà tan hoàn toàn 9 gam (3,6 + 5,4) hỗn hợp hai kim loại Magie và Nhôm trong dung dịch HCl dư thu được 10,08 (3,36 + 6,72) lít Hiđro ở ĐKTC.
	a. Viết phương trình phản ứng hoá học xảy ra.
	b. Tính khối lượng mỗi kim loại trong hỗn hợp ban đầu.
	(hoặc câu hỏi: Tính thành phần phần trăm về khối lượng của mỗi kim loại trong hỗn hợp ban đầu).
	Bài toán 3 là dạng bài toán hỗn hợp có thể giải bằng nhiều phương pháp khác nhau (có thể giải bằng phương pháp số học, phương pháp đại số).
	Trong phạm vi bài này tôi muốn rèn luyện cho học sinh cách giải kết hợp việc vận dụng giải bài toán cổ.
	“Vừa gà vừa chó, bó lại cho tròn. 36 con, 100 chân chẵn. Tính số gà, số chó”
	Giáo viên hướng dẫn học sinh giải bài toán cổ từ đó dẫn dắt học sinh vận dụng vào giải bài toán hóa học dạng hỗn hợp các chất.	
Giải theo phương pháp lập hệ phương trình bậc nhất hai ẩn số.
Gọi số gà là x con (x > 0, nguyên)
Số chó là y con (y > 0, nguyên)
Ta có phương trình.
x + y = 36 (*)
Cứ một con gà có 2 chân
 x con gà có 2x chân.
Cứ một con chó có 4 chân.
y con chó có 4y chân
Theo bài ra ta có phương trình về tổng số chân gà và chân chó là:
2x + 4y = 100 (**)
Kết hợp (*) và (**) ta có hệ phương trình.
Giải hệ phương trình ta tìm được
x = 22; y = 14;
Vậy số gà là 22 con, số chó là 14 con.
Vận dụng bài hoá học dạng hỗn hợp các chất.
a, Viết phương trình phản ứng hóa học.
Mg + 2HCl MgCl2 + H2 (1)
2Al + 6HCl 2AlCl3 + 3H2 (2)
b. Gọi khối lượng Mg là x (x > 0, tính bằng gam)
Gọi khối lượng Al là y ( y > 0, tính bằng gam )
Ta có phương trình.
x + y = 9 (*)
Từ PTHH (1) ta có.
Cứ 24g Mg phản ứng cho 22,4 lít H2
 x gam Mg phản ứng cho lít H2.
Từ PTHH (2) ta có.
Cứ 2.27 gam Al phản ứng cho 3.22,4 lít H2.
 y gam Al phản ứng cho lít H2
Theo bài ra ta có phương trình về tổng thể tích khí H2 thoát ra ở ĐKTC.
Kết hợp (*) và (**) ta có hệ phương trình
Giải hệ phương trình tìm được.
Khối lượng Mg: x = 3,6 g
Khối lượng Al: y = 5,4g.
II.3.2.4. Ví dụ 4: Bài toán 4.
Hoà tan hoàn toàn 5,2g hỗn hợp gồm Mg và Fe bằng dung dịch axit HCl 1M, thì thu được 3,36 lít H2 ở ĐKTC.
a. Tính % khối lượng mỗi kim loại trong hỗn hợp.
b. Tính thể tích dung dịch axit HCl đã dùng.
Giải
a. Phương trình hoá học
Mg + 2HCl MgCl2 + H2 (1)
Fe + 2HCl FeCl2 + H2 (2)
Gọi khối lượng Mg là x (g) (x > 0).
Khối lượng Fe là y (g) (y > 0). 
Ta có phương trình.
x + y = 5,2 (*)
Từ PTHH (1) ta có:
Cứ 24g Mg phản ứng cho 22,4 lít H2
Vậy x gam Mg phản ứng cho lít H2
Từ PTHH (2) ta có.
Cứ 56g Fe phản ứng cho 22,4 lít H2
Vậy y gam Fe phản ứng cho lít H2
Theo bài ra ta có phương trình về tổng thể tích khí H2 thoát ra ở ĐKTC:
Kết hợp (*) và (**) có hệ phương trình:
Giải ra ta có khối lượng Mg: x = 2,4g
 Khối lượng Fe : y = 2,8g
à %Mg = 
à %Fe = 
b. 
Từ PTHH (1) và (2) tổng số mol axit đã dùng. 
à
Vậy thể tích dung dịch axit HCl đã dùng là 0,3 lít.
II.2.2.5.Ví dụ 5: Bài toán 5. Khử hoàn toàn 5,43 gam một hỗn hợp gồm 2 oxit CuO và PbO bằng khí Hiđro thu được 0,9 gam nước.
a. Viết các phương trình hoá học xảy ra.
b. Tính khối lượng mỗi oxit có trong hỗn hợp ban đầu.
c. Tính thành phần phần trăm theo khối lượng của mỗi chất rắn thu được sau phản ứng.
Giải:
a. Phương trình hoá học.
CuO + H2 Cu + H2O (1)
PbO + H2 Pb + H2O (2)
b. Gọi khối lượng của CuO là x (x > 0, tính bằng gam).
 Khối lượng của PbO là y (y > 0, tính bằng gam).
Ta có phương trình:	x + y = 5,43 (*)
Từ PTHH (1) ta có:
 	 Cứ 80g CuO phản ứng cho 18g nước. 
 Vậy: x gam CuO phản ứng cho nước.
Từ PTHH (2) ta có:
Cứ 223g PbO phản ứng cho 18g nước.
Vậy y g PbO phản ứng cho g nước.
Theo bài ra ta có phương trình về tổng khối lượng nước được tạo thành.
Kết hợp (*) và (**) ta có hệ phương trình.
Giải ra ta có: Khối lượng CuO: x = 3,2g.
	 Khối lượng PbO: y = 2,23g.
c. Theo kết quả phần b ta có.
Theo phương trình (1).
à mCu= 0,04. 64 =2,56 (g).
Theo phương trình (2) 
à 
Khối lượng hỗn hợp sau phản ứng 
% Cu = 
% Pb = 
Qua các ví dụ trên. tổ chức thiết kế dạy học đã góp phần rất lớn vào việc nâng cao chất lượng dạy học. Học sinh nắm vững kiến thức vừa rèn luyện kỹ năng vừa phát triển năng lực hoạt động tư duy, phát huy khả năng sáng tạo của học sinh làm cho tiết học thực sự trở nên sinh động theo hướng tích cực vaø qua việc hướng dẫn cách giải bài hỗn hợp các chất kết hợp việc vận dụng toán học, nhằm giúp học sinh cách giải nhanh hơn các dạng bài toán hoá học tính theo phương trình hoá học. Từ bài toán 3,4,5 ở trên giáo viên có thể yêu cầu học sinh đặt các đề toán có dạng tương tự như trên (với bài toán chung nhất). Bài toán đó là: “Cho một hỗn hợp gồm hai chất A và B (A và B có thể là hai kim loại, oxit, axit, bazơ, muối ) Có khối lượng (m) gam, tác dụng với chất C, thu được các sản phẩm, trong đó có một sản phẩm D chung (chất D có thể đã biết khối lượng, có thể biết thể tích ở ĐKTC ). Trên cơ sở đó tính khối lượng, hay tính phần trăm về khối lượng của mỗi chất có trong hỗn hợp ban đầu”
II.4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
II.4.1. Kết quả đạt được.
II.3.2.1. Chất lượng học sinh khi chưa vận dụng đề tài
Tổng số: 50 học sinh.
Loại
Giỏi
Khá
TB
Yếu
Kém
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
Tổng số
1
2
7
14
32
64
9
18
1
2
Qua đánh giá phân loại.
- 16% học sinh biết cách giải song trình bày chưa khoa học.
- 64% học sinh có hướng giải song chưa trình bày được.
- 20% học sinh chưa biết cách giải bài tập.
Nguyên nhân kết quả trên là: 
- Đại đa số các em còn thiên về học thuộc lòng mà chưa chuyên sâu về bản chất.
- Dạng bài tập này vận dụng óc tư duy sáng tạo nhiều nhưng sự tư duy của học sinh chưa cao.
- Dạng bài tập bày liên quan đến môn toán mà kĩ năng giải toán của học sinh còn hạn chế.
II.3.2.2. Chất lượng học sinh khi vận dụng đề tài
Qua việc phân loại được dạng bài tập hỗn hợp các chất tính theo phương trình hoá học có vận dụng toán học và hướng dẫn giải bài tập mẫu đã đem lại hiệu quả thiết thực đem lại hứng thú trong học tập môn Hoá học. Học sinh thích học môn Hoá học hơn và không còn ngại khi giải bài tập tính theo phương trình hoá học dạng hỗn hợp các chất.
Kết quả học sinh cuối năm đạt được như sau.
Loại
Giỏi
Khá
TB
Yếu
Kém
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
Tổng số
11
22
18
36
19
38
2
4
0
0
Như vậy khi sử dụng phương pháp dạy học như trên đã thấy được chất lượng bộ môn hoá học tăng cao, nhằm góp phần vào đội tuyển học sinh giỏi của trường, cũng như của huyện, số học sinh giỏi đầu năm chỉ có 01 em chiếm tỉ lệ 02% tăng lên 11 học sinh chiếm 22%, số học sinh khá cũng tăng vọt từ 07 học sinh chiếm 14% đến cuối năm học tăng lên 18 học sinh chiếm 36%, còn số học sinh yếu giảm đáng kể từ 9 học sinh chiếm 18% còn 02 học sinh chiếm 04 % và không còn học sinh kém.
Qua quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài thì đa số học sinh đã biết cách giải bài tập dạng hỗn hợp các chất tính theo phương trình hoá học có vận dụng toán học. Tuy nhiên do khả năng tiếp thu kiến thức bộ môn Hoá ở nhiều em còn hạn chế nên kĩ năng giải bài tập dạng này ở một số em chưa thật thành thạo. Đó cũng là khó khăn chung khi giảng dạy đối tượng học sinh vùng cao, ở tất cả các bộ môn.
II.5. BÀI HỌC KINH NGHIỆM :
Qua thời gian nghiên cứu vận dụng các phương pháp, tôi rút ra cho mình một số kinh nghiệm như sau : 
Hoàn toàn có thể sử dụng các phương pháp nêu trên để có thể giúp học sinh hoạt động tìm kiến thức, rèn luyện kỹ năng vận dụng vào các bài tập cụ thể ở môn hoá học trong trường trung học cơ sở. Yêu cầu giáo viên phải làm tốt các khâu chuẩn bị và khéo léo phối hợp các phương pháp sao cho phù hợp với từng nội dung và mức độ kiến thức và đối với học sinh.
Phương pháp nêu trong đề tài có khả năng phát huy rất tốt năng lực tư duy độc lập của học sinh, làm cho không khí học tập của học sinh hào hứng và sôi nổi hơn. Các em đã tích cực tham gia vào các hoạt động tìm kiếm kiến thức. Kiến thức và kỹ năng của các em đã được cũng cố một cách vững chắc, kết quả học tập của học sinh không ngừng được nâng cao. Học sinh đã thực sự chủ động và biết cách tự lĩnh hội tri thức trong quá trình học tập không còn mang tính gượng ép như trước. Đồng thời tôi cũng nhận thấy rõ rằng hơn giáo viên đóng một vai trò quyết định cho sự thành hay bại của chất chất lượng dạy học.
III. PHẦN KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu đề tài tôi nhận thấy mình được củng cố thêm về kiến thức, kinh nghiệm giảng dạy bộ môn. Đối với học sinh các em cũng thêm yêu môn Hoá học hơn và có hứng thú học tập trong các giờ luyện tập, ôn tập. Chất lượng học tập bộ môn dần được nâng lên.
	Trong thời gian nghiên cứu đề tài tôi thấy để giải các bài tập dạng hỗn hợp các chất tính theo phương trình hoá học có vận dụng toán học, chúng ta cần tổ chức hướng dẫn học sinh tiến hành theo các bước cơ bản sau:
Bước 1: Tổ chức cho học sinh nghiên cứu kĩ đầu bài, nhận dạng bài toán.
Bước 2: Lập đúng phương trình Hóa học. 
Bước 3: Đặt ẩn số cho các đại lượng cần tính trong hỗn hợp các chất đã cho ở đầu bài và điều kiện của ẩn. Sau đó dựa vào các dữ kiện ở đầu bài lập hệ phương trình. Trong đó một phương trình biểu diễn các ẩn theo khối lượng hỗn hợp các chất và một phương trình theo dữ liệu của sản phẩm chung. 
Bước 4: Giải hệ phương trình tìm giá trị của ẩn và kiểm tra với điều kiện của ẩn ta sẽ tìm được khối lượng của từng chất trong hỗn hợp chất.
Để phù hợp với đặc trưng của bộ môn “ Khoa học thực nghiệm” Thì việc Giải bài tập hoá học là hết sức cần thiết. Thông qua việc làm này học sinh đã được tìm tòi kiến thức một cách chủ động. Rèn kĩ năng giải bài tập dạng hỗn hợp các chất tính theo phương trình hoá học có vận dụng toán học vào các bài tập cụ thể. Giúp các em biết vận dụng lý thuyết vào thực tiễn. Phát huy khả năng phán đoán, óc tổng hợp, kết luận theo hướng quy nạp và diễn giải.
Để phát huy tốt tính tích cực sáng tạo, tìm tòi của học sinh trong việc giải bài tập dạng hỗn hợp các chất tính theo phương trình hoá học, người giáo viên phải có những lời nói, việc làm mang tính khuyến khích động viên hơn là sự bắt buộc. Có sự kiểm tra, đánh giá việc làm của học sinh một cách thoả đáng, tạo cho học sinh niềm vui, hứng thú với công việc. Như vậy việc giải bài tập dạng hỗn hợp các chất tính theo phương trình hoá học không chỉ phát huy tính tích cực của đông đảo học sinh mà còn phát hiện bồi dưỡng những năng lực tiềm ẩn trong các em.
Việc rèn kĩ năng giải bài tập dạng hỗn hợp các chất tính theo phương trình hoá học có vận dụng toán học nêu trên nhằm mục đích làm tích cực hoá các hoạt động dạy và học, đem lại những kết quả rất khả thi và tạo được hứng thú lớn trong học tập của học sinh, đồng thời phát huy tối đa sự tham gia của người học. Học sinh có khả năng tự tìm ra kiến thức, tự mình tham gia vào các hoạt động để củng cố kiến thức, rèn luyện được kỹ năng. Dạy học như thế có tác động rất lớn đến việc phát triển năng lực hoạt động trí tuệ, nâng cao năng lực tư duy độc lập và khả năng tìm tòi sáng tạo.
Như vậy khi tôi chưa áp dụng đề tài này thì tỉ lệ học sinh yêu thích bộ môn hoá học là rất ít, đồng thời kết quả học tập bộ môn hoá học cũng không được cao. Sau khi áp dụng phương pháp dạy học tích cực và rèn luyện kỹ năng giải bài tập dạng hỗn hợp các chất tính theo phương trình hoá học có vận dụng toán học thì chất lượng học tập bộ môn này được nâng cao rõ rệt.
Trên đây là một vài kinh nghiệm của tôi về việc rèn kĩ năng giải bài tập dạng hỗn hợp các chất tính theo phương trình hoá học có vận dụng toán học. Do thời gian và kinh nghiệm chưa nhiều nên đề tài còn hạn chế. Tôi rất mong sự đóng góp ý kiến và chỉ đạo của các đồng nghiệp và các cấp lãnh đạo để sáng kiến thêm phong phú và hoàn chỉnh hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
ĐakPơ, ngày 08 tháng 3 năm 2009.
NGƯỜI VIẾT
Nguyễn Duy Tuấn Anh
PHẦN PHỤ LỤC
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Giáo trình tâm lí học đại cương – NXB GD
- Phương pháp dạy học trong nhà trường phổ thông – tác giả : Lê Văn Dũng - Nguyễn Thị Kim Cúc.
- Sách Giáo Khoa Hóa học 8 – Lê Xuân Trọng - Nguyễn Cương – NXB GD 2004.
- Sách Giáo viên hoá học 8 – Lê Xuân Trọng - Nguyễn Cương – NXB GD 2004.
- Sách Giáo Khoa Hóa học 9 – Lê Xuân Trọng – Cao Thị Thặng – Ngô Văn Vụ – NXB GD 2005.
- Sách Giáo viên hoá học 9 – Lê Xuân Trọng – Cao Thị Thặng –Nguyễn Phú Tuấn - Ngô Văn Vụ – NXB GD 2005.
- Chuyên đề bồi dưỡng Hoá 8,9 của Hoàng Vũ.
- Hướng dẫn làm bài tập hoá học 8, 9 – tác giả : Ngô Ngọc An.
- Một số tài liệu khác có liên quan.
SỞ GD & ĐT TỈNH GIA LAI 	 CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
 HỘI ĐỒNG KHOA HỌC 	 Độc lập - Tự do Hạnh - phúc
PHIẾU ĐÁNH GIÁ, XẾP LOẠI
CẢI TIẾN, SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Tên đề tài cải tiến, sáng kiến kinh nghiệm :
....
2. Người viết cải tiến, sáng kiến kinh nghiệm
- Họ và tên : .
- Chức vụ :  Đơn vị : 
- Nhiệm vụ chính đang đảm nhận : .
- Trình độ chuyên môn nghiệp vụ : .
3. Người đánh giá : 
- Họ và tên : . học vị : ..
- Chức vụ và đơn vị công tác : 
- Nhiệm vụ được phân công trong HĐKH : 
NỘI DUNG ĐÁNH GIÁ 
Nội dung đánh giá
Nhận xét
Xếp loại
Yếu tố 1
Yếu tố 2
Yếu tố 3
Tính khoa học
Tính sáng tạo 
Xếp loại chung : 	. ngày. tháng . năm 200
	 Người đánh giá
SỞ GD & ĐT TỈNH GIA LAI 	 CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
 HỘI ĐỒNG KHOA HỌC 	 Độc lập - Tự do Hạnh - phúc
PHIẾU ĐÁNH GIÁ, XẾP LOẠI
CẢI TIẾN, SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Tên đề tài cải tiến, sáng kiến kinh nghiệm :
....
2. Người viết cải tiến, sáng kiến kinh nghiệm
- Họ và tên : .
- Chức vụ :  Đơn vị : 
- Nhiệm vụ chính đang đảm nhận : .
- Trình độ chuyên môn nghiệp vụ : .
3. Người đánh giá : 
- Họ và tên : . học vị : ..
- Chức vụ và đơn vị công tác : 
- Nhiệm vụ được phân công trong HĐKH : 
NỘI DUNG ĐÁNH GIÁ 
Nội dung đánh giá
Nhận xét
Xếp loại
Yếu tố 1
Yếu tố 2
Yếu tố 3
Tính khoa học
Tính sáng tạo 
Xếp loại chung : 	. ngày. tháng . năm 200
	 Người đánh giá

File đính kèm:

  • docSKKN_Hoa_hocRen_luyen_ky_nang_giai_bai_tap_honhopcac_chat_tinh_theo_PTHH_co_van_dung_toan_hoc.doc
Sáng Kiến Liên Quan