Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp dạy học một tiết Vật lý 6

 - Thực hiện nguyên lý giáo dục của đảng “Học đi đôi với hành” trong thời kỳ đất nước trên đà phát triển- thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá; trong chiến lược phát triển,đảng ta xác định, lấy giáo dục làm quốc sách hàng đầu: Đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, nâng cao dân trí trong nhà trường đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành nhân cách toàn diện cho học sinh.Một nhân cách mang bản sắc dân tộc Việt Nam,đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội đang thời kỳ mở cửa của kinh tế thị trường. Như vậy, chất lượng giáo dục trong nhà trường luôn là nỗi bức xúc cúa toàn xã hội. Nhà trường với nhiệm vụ trọng tâm là đào tạo thế hệ trẻ thành những con người phat triển toàn diện thông qua quá trình giảng dạy, vì vậy học sinh được tiếp xúc với các môn khoa học tự nhiên và xã hội trong hệ thống các môm học đó, thì môn vật lý đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện nguyên lý gíao dục “học đi đôi với hành”.

 - Môn vật lý có tầm quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu đào tạo của bậc THCS có nhiệm vụ cung cấp cho học sinh một số kiến thức vật lý cơ bản ở trình độ phổ thông cơ sở . Bước đầu hình thành ở học sinh các kỹ năng cơ bản thói quen làm việc khoa học, góp phần hình thành ở học sinh các nhân lực thức và các phẩm chất cách mà mục tiêu giáo giục bậc THCS đề ra .

 - Môn vật lý có mối quan hệ gắn bó qua lại với các môn khác. Nhiều kiến thức và kỹ năng đạt được qua môn vật lý cơ sở đối với việc học tập các môn khoa học khác, đặc biệt môn khoa học thực nghiệm đã được toán học ở mức độ cao nên nhiều kiến thức và kỹ năng toán học được sử dụng rộng rãi trong việc học tập môn vật lý .

 

doc19 trang | Chia sẻ: sangkien | Lượt xem: 4772 | Lượt tải: 1Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp dạy học một tiết Vật lý 6", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 từ 3-5 phút ) nhưng có tác dụng tạo ra sự hứng thú học tập cho học sinh trong cả tiết học. Do đó giáo viên phải tổ chức cho học sinh thực hiện hoạt động này một cách hiệu quả. đa số các bài có thể dựa vào lời đề dẫn của sách giáo khoa để dặt ra câu hỏi cho vấn đề cần nghiên cứu vì các hiện tượng vật lý nêu ra trong các lời đề dẫn của sách giáo khoa đều rất quen thuộc với học sinh. 
 Thí dụ :
 “Một lò so và một dây cao su tính chất nào giống nhau ?’’( bài lực đàn hồi ) “đo khối lượng của một vật bẵng dụng cụ gì ?’’( bài khối lượng - đo khối lượng ). Hoặc có những hiện tượng vật lý trong lời đề dẫn tuy học sinh không được nhìn trực tiếp nhưng qua các phương tiện thông tin mà các em được biết như các ảnh chụp “ tháp ép phen’’, “ tượng đồng huyền thuyên Tuấn Vũ’’
 Sau khi học sinh đọc xong lời đề dẫn của sách giáo khoa , giáo viên yêu cầu học sinh đưa ra dự đoán vấn đề nghiên cứu một cách gắn gọn , không cần giải thích để tiết kiệm thời gian và tạo cho học sinh sự tò mò , muốn tìm cách kiểm tra dự toán của mình .
 Thí dụ :
 Giáo viên yêu cầu học sinh dự toán “ có’’ hoặc “ không’’ cho lời đề dẫn của bài “ đòn bẩy’’ hay với lời đề dẫn của bài “ sự sôi’’ giáo viên yêu cầu học sinhdự toán xem câu trả lời của bạn bình hay bạn An đúng ? Có những bài giáo viên đặt thẳng vấn đề cần nghiên cứu mà khong yêu cầu học sinh dự toán kết quả nghiên cứu vì nếu để học sinh dự toán sẽ mất nhiều thới gian của tiết học như các bài : “ sự nóng chảy - sự đông đặc’’, “ một số ứng dụng về sự nở vì nhiệt’’ 
 Với bài “ khối lượng riêng - trọng lượng riêng’’ giáo viên có thể kết hợp kiểm tra bài cũ để tạo tình huống bài như sau :
 GV ? đo khối lượng trọng lượng của một vật bằng các dụng cụ đo nào ?
 HS : đo khối lượng của vật bằng cân , đo trọng lượng của vật bằng lực kế .
 GV? Dùng cân và lực kế có thể xác định khối lượng riêng của bất kì vật nào được không ?Vì sao? 
 HS : không thể dùng cân và lực kế để xác định khối lượng và trọng lượng của những vật có kích thước rất lớn như : tảng đá , bức tường , cây cầu 
 Từ đó giáo viên đặt ra vấn đề cần nghiên cứu của bài :
 Với cách tạo tình huống như trên , giáo viên vừa giúp học sinh liên hệ kiến thức đã học với kiến thức sắp học, vừa tạo hứng thú học tập cho học sinh trong tiết học .
 * Thu thập thông tin :
 Đây là hoạt động trọng tâm thể hiện trong từng đơn vị kiến thức của bài và rất đa dạng : thông qua việc làm thí nghiệm hoặc quan sát thí nghiệm do giáo viên làm : Phân tích kết quả thí nghiệm , quan sát các hiện tượng tự nhiên ; đọc tài liệu, xem tranh ảnh , ôn các lại kiến thức đã họcqua đó học sinh thu thập được những thông tin cần thiết về các vấn đề cần nghiên cứu các hình thức thu thập thông tin trên không tách rời riêng rẽ mà có liên hệ logic với nhau. Trong một bài hay trong một đơn vị kiến thức có thể gồm nhiều hình thức thu thập thông tin nhưng đọc SGK là hình thức thu thập thông tin được học sinh sử dụng nhiều nhất .
 Thí dụ : 
 Trong bài “ khối lượng riêng - trọng lượng riêng’’ đọc sách giáo khoa học sinh tìm hiểu được các phương án xác định khối lượng của chiếc cột sắt ấn độ , biết được khối lượng riêng và đơn vị của khối lượng riêng - trọng lượng riêng ; biết được giá trị khối lượng riêng của các chất , tìm hiểu nội dung công việc phải làm và lập phương án thí nghiệm để xác định trọng lượng riêng của chất làm quả cân .
 Để điều khiển hoạt động này giáo viên phải đưa ra các lệnh ngắn gọn , dễ hiểu như : “ tự đọc SGK trả lời câu hỏi C1’’, tự tìm hiểu khối lượng riêng của một số chất “ tự đọc câu C5 để tìm hiểu công việc phải làm’’ , “ các nhóm thảo luận tìm phương án thí nghiệm xác định trọng lượng riêng của chất làm quả cân’’, các nhóm thí nghiệm theo phương án đã chọn’’ 
 Trong hoạt động này giáo viên tuyệt đối không được làm thay học sinh mà chỉ là người theo dõi hướng dẫn học sinh thực hiện . Như vậy hoạt động thu thập thông tin mới phát huy được tính tích cực học tập của học sinh. Qua hoạt động này học sinh rèn luyện được khả năng tự đọc, tự nghiên cứu khi đọc sách giáo khoa tìm hiểu thông tin, rèn luyện được năng lực sáng tạo khi lựa chọn và thiết kế thí nghiệm rèn luyện năng lực thực hành khi bố trí lắp đặt tiến hành thí nghiệm theo hướng dẫn hoặc thay đổi phương án thí nghiệm nếu kết quả không phù hợp vơi vấn đề đặt ra , rèn luyện tính cẩn thận 
trung thực khi kết quả thí nghiệm hay biểu diễn kết quả thí nghiệm bằng đồ thị , sơ đồ 
 * Xử lý thông tin :
 Căn cứ vào những thông tin đã thu thập , đồng thời qua một hệ thống câu hỏi trong bài học , học sinh tự rút ra kết luận cần thiết . Trong bài học có những câu hỏi được viết không chọn vẹn , học sinh phải tìm từ thích hợp điền vào chỗ trống của các câu này . 
 Thí dụ : 
 Từ khái niệm và đơn vị trọng lượng riêng , học sinh trình bày hiểu biết của mình về các đại lượng d, P , V khi điền vào chỗ trống trong câu C4 có những câu hỏi tự luận yêu cầu học sinh trình bày đầy đủ hiểu biêt của mình về một vấn đề nào đó thí dụ từ các số liệu đã cho , học sinh xác định khối lượng của chiếc cột sắt ấn độ từ khái niệm và đơn vị khối lượng riêng , học sinh biết sử dụng bảng khối lượng riêng của một số chất .
 Khi điều khiển hoạt động này giáo viên cần phải chú ý quan sát từng học sinh làm việc , kịp thời nhắc nhở những học sinh chưa tích cực học tập còn chông chờ ỷ lại vào kết quả học tập của bạn hoặc làm việc một cách qua loa , chống đối .
 * Vận dụng :
 Hoạt động này vừa giúp học sinh vận dụng những kiến thức vật lý vừa được rút ra từ bài học vào thực tế để hiểu sâu bài , vừa giúp các em tự kiểm tra trình độ của mình . Phần vận dụng này được SGK trình bày dưới dạng các câu hỏi và các bài tập, trong đó có bài tập các em tự viết câu trả lời , có bài phải chọn câu trả lời đúng trong các câu trả lời cho sẵn , một số bài có đánh dấu * là các bài khó dành cho học sinh khá giỏi .
 Thí dụ :
 Dựa vào cách xác định khối lượng riêng của chiếc cột sắt ấn độ và bảng khối lượng riêng, học sinh tính được khối lượng của 0.5m3 đá ( C2 ) từ đó đưa ra được công thức m = D x V ( C3 ) hoặc từ các công thức : m = D x V, P = d x V , d = 10 D học sinh tính được khối lượng và trọng lượng của chiếc dầm sắt có thể tích 40 dm3 ( C6 ) .
 Khi giải các bài tập này học sinh thường lúng túng khi biến đổi công thức để xác định đại lượng vật lý cần tìm hoặc không biết cách đổi đơn vị thể tích. Giáo viên có thể gợi ý để học sinh giải quyết được vấn đề chứ không làm thay cho học sinh , có như vậy kiến thức học sinh nhận được mới bền vững . 
 Trong hoạt động này, giáo viên luôn là người theo dõi yêu cầu học sinh khá giúp đỡ các bạn học kém ngồi cạnh mình, để tất cả học sinh đều có thể hoàn thành nhiệm vụ học tập .
 * Ghi nhớ :
 Đây là nội dung kiến thức cơ bản của bài mà học sinh phải thuộc và ghi nhớ , được in chữ đậm trong nền khung màu . giáo viên có thể yêu cầu học sinh tự đọc hoặc tự chép phần ghi nhớ vào vở
giúp học sinh nắm chắc các kiến thức của bài .
 Ngoài các hoạt động trên , trong mọi bài đều có mục “ có thể em chưa biết’’ viết về những vấn đề lý thú liên quan đến nội dung bài học, phần này giúp học sinh đọc để mở rộng những kiến thức chưa có điều kiện tìm hiểu ở cấp học này .
 Trong từng hoạt động giáo viên có thể phát huy tính tích cực của học sinh ở những mức độ khác nhau : học sinh có thể tự thực hiện những thí nghiệm đơn giản theo hướng dẫn sách giáo khoa hoặc trả lời những câu hỏi điền khuyết hoặc học sinh có thể thực hiện theo đúng hướng dẫn của giáo viên đối với những thí nghiệm phức tạp hơn hoặc với những câu hỏi tự luận khó . Với câu C1 để xác định khối lượng riêng của chiếc cột sắt , giáo viên phải có những câu hỏi gợi ý để dẫn dắt học sinh giải quyết vấn đề hoặc như câu C7 giáo viên phải gợi ý cho học sinh phát hiện được thể tích nước hầu như 
không đổi khi cho một lượng rất nhỏ muối ăn vào nước . Từ đó học sinh mới tính được khối lượng của nước, muối .
 Kinh nghiệm của bản thân tôi cho thấy , khi dạy học theo hướng tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh . trong thời gian 45 phút của tiết học giáo viên thường dễ bị “ cháy’’ giáo án , vì khi phát huy tính tích cực học tập của học sinh càng nhiều thì càng sảy ra nhiều tình huống khác với dự kiến của giáo viên . Do đó giáo viên cân nhắc xác định trọng tâm của bài , tuỳ thuộc vào mục tiêu đã được lượng hoá của bài học cũng như cơ sở thiết bị dạy học có cho phép .
B. Dự kiến hệ thống câu hỏi hướng dẫn học sinh hoạt động :
 Trong mỗi học tập hoạt động , giáo viên nên dự kiến hệ thống câu hỏi xen kẽ với yêu cầu học sinh hoạt động để hướng dẫn học sinh tiếp cận , tự phát hiện và chiếm lĩnh kiến thức mới . Mỗi hoạt động học tập của học sinh đều nhằm mục tiêu chiếm lĩnh một kiến thức hay rèn luyện một kỹ năng cụ thể và phục vụ cho việc đạt được mục tiêu chung của bài học . Do đó hệ thống câu hỏi của giáo viên trong từng hoạt động giữ vững vai trò chủ đạo quyết định chất lượng lĩnh hội kiến thức của học sinh . Muốn vậy giáo viên phải:
 Giảm số câu hỏi có yêu cầu thấp vềmặt nhận thức mang tính kiểm tra , chỉ yêu cầu nhớ lại những kiến thức đã biết và trả lời chỉ dựa vào trí nhớ , thường chỉ có một phương án trả lời đúng ngắn , không cần suy luận .Loại câu hỏi này thường được sử dụng khi cần đặt mối quan hệ giữa kiến thức 
đã học và kiến thức sắp học .
 Thí dụ : 
 Đo khối lượng và trọng lượng của vật bằng các dụng cụ gì ? viết công thức liên hệ giữa trọng lượng và khối lượng của cùng một vật ? hoặc khi chuẩn bị thức hành thí nghiệm nếu cách đo thể tích của vật rắn không thấm nước hoặc khi học luyện tập , củng cố kiến thức vừa học viết công thức tính khối lượng và trọng lượng của một vật ?...
 Tăng số câu hỏi then chốt nhằm vào những mục đích nhận thức cao hơn , đòi hỏi sự thông hiểu phân tích tổng hợp , khái quát hoá , hệ thống hoá vận dụng kiến thức đã học cùng những câu hỏi mở có nhiều phương án trả lời . Loại câu hỏi này thường được sử dụng khi học sinh bị cuốn hút vào các cuộc thảo luận tìm tòi hoặc khi học sinh tham gia giải quyết các vấn đề cũng như vận dụng kiến thức đã học và các tình huống mới .
 Thí dụ :
 Để xác định khối lượng của chiếc cột sắt , phải biết những điều gì ? “ Từ công thức m = D x V suy ra công thức d và V ?’’ “ Từ công thức d = P/V suy ra công thức tính P và V’’ khối lượng riêng cuả nhôm là 2.700 kg/ m3 có ý nghĩa như thế nào ? Có thể tính trọng lượng riêng của một vật theo mấy cách ? có thể viết7.800 kg/ m3 = 78000 N/m3 không ? Vì sao ? 
 Hiệu quả kích thích tư duy của học sinh khi đặt câu hỏi ở mức độ nhận thức thấp hay cao phụ thuộc rất nhiều vào khả năng của học sinh . Sẽ hoàn toàn vô tác dụng nếu giáo viên đặt câu hỏi khó để học sinh không có khả năng trả lời được hoặc sẽ hoàn toàn vô nghĩa nếu đặt ra câu hỏi quá dễ với khả năng của học sinh .
 Khi học sinh trả lời , giáo viên cần có nhận xét động viên những câu hỏi đúng cũng như các câu trả lời chưa đúng , nếu tất cả học sinh trả lời sai thì giáo viên cần đặt câu hỏi đơn giản hơn để học sinh có thể trả lời được vì học sinh chỉ hứng thú học tập khi các em thành công trong học tập .
 Để đạt hiệu quả cao khi đặt câu hỏi cho học sinh , giáo viên nên : dừng lại một chút sau khi đặt câu hỏi , nhận xét một cách khuyến khích đối với các câu trả lời của học sinh , tạo điều kiện cho nhiều học sinh trả lời một câu hỏi có câu hỏi gợi ý cho những câu hỏi khó , yêu cầu học sinh giải thích câu trả lời và liên hệ câu trả lời với các kiến thức khác . Giáo viên không nên : nhắc lại nhiều lần câu hỏi của mình đưa ra , nhắc lại câu trả lời của học sinh .
C. Nghiên cứu tổ chức cho học sinh hoạt động trên lớp dưới những hình thức học tập khác nhau .
 Để tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh và tránh sự nhàm chán trong giờ học , GV nên tổ chức nhiều hình thức học tập cho học sinh đó là : 
 * Hình thức học tập cá nhân :
 Đây là hình thức cơ bản nhất vì nó tạo điều kiện cho mỗi học sinh bộc lộ khả năng học tập của mình ( được tự nghĩ , được làm việc một cách tích cực ) nhằm đạt tới mục tiêu học tập . Hình thức học tặp cá nhân thể hiện trong các hoạt động của học sinh; như tự đọc SGK thu thặp thông tin , tự giác kết quả thí nghiệm, tự rút ra nhận xét kết luận và vận dụng các kiến thức văn học vào tình huống mới. 
 * Hình thức học tập theo nhóm :
 Đây là hình thức học tập được thể hiện theo phương pháp dạy học mới , hình thức học tập này có ý nghĩa quan trọng là rèn luyện năng lực tư duy của mỗi học sinh cũng được phát huy .
 Tuy nhiên do bị hạn chế bởi không gian chật hẹp của lớp học và thời gian hạn định của tiết học . khi tổ chức cho học sinh học tập theo nhóm giáo viên phải biết tổ chức hợp lý mới có hiệu quả , không nên lạm dụng hoạt động nhóm và đề phòng xu hướng với những câu hỏi khó hay những vấn đề phức tạp đòi hỏi phải có sự hợp tác giữa các cá nhân mới có thể hoàn thành nhiệm vụ học tập .
 Thí dụ : 
 Trong bài “ khối lượng riêng - trọng lượng riêng’’ học sinh thảo luận nhóm để đưa ra phương án thí nghiệm và tiến hành thí nghiệm theo phương án đã chọn để xác định trọng lượng riêng của chất làm quả cân , thảo luận nhóm đưa ra phương án trả lời câu hỏi C7 trong phần vận dụng .
 Khi tổ chức học tập theo nhóm , giáo viên nên hướng dẫn để mỗi thành viên trong nhóm đều được tham gia vào công việc của nhóm , tránh tình trạng chỉ dồn hoạt động của cả nhóm vào một , hai học sinh khá và có ý thức tốt . Đối với những em chưa tích cực học tập giáo viên có thể yêu cầu học sinh đó làm một công việc cụ thể của nhóm . Từ đó góp phần hình thành ý thức tự giác của học sinh .
 * Hình thức học tập toàn lớp :
 Đây là hình thức học tập truyền thống trong nền giáo dục của đất nước ta . hình thức học tập này được thực hiện trước và sau hai hình thức học tập trên nhằm đảm bảo tính thống nhất cho các hoật động của học sinh và tính chính xác của mỗi đơn vị kiến thức được học sinh đưa ra .
 Thí dụ : 
 Trong bài “ khối lượng riêng - trọng lượng riêng’’ hoạt động nhóm có thể tiến hành theo các bước sau : 
 + Giáo viên làm chung với cả lớp :
 - Nêu nhiệm vụ nhận thức cho các nhóm : Xác định trọng lượng riêng của chất làm quả cân .
 - Chia nhóm phát dụng cụ cho các nhóm . 
 - Hướng dẫn học sinh làm việc theo nhóm : Yêu cầu mỗi học sinh thực hiện một công việc , các học sinh khác quan sát theo dõi và ghi kết quả thí nghiệm vào phiếu học tập của cá nhân .
 + Học sinh làm việc theo nhóm : 
 _ Phân việc cho các thành viên trong nhóm : Nhóm trưởng, thư kí, người đo trọng lượng của quả cân , người báo kết quả thí nghiệm .
 _ Từng cá nhân làm việc độc lập theo sự phân công , học sinh khác theo dõi và bổ sung .
 _ Trao đổi thảo luận trong nhóm và cùng nhau hoàn thành nhiệm vụ của nhóm .
 + Giáo viên làm việc chung với cả lớp ( hướng dẫn học sinh thảo luận , tổng kết trước cả lớp ) 
 _ Đại diện các nhóm báo cáo kết quả thí nghiệm .
 _ Các nhóm nhận xét , đóng góp ý kiến bổ xung . 
 _ Giáo viên tổng kết và chuẩn xác kiến thức .
 Trong thời gian học sinh thực tập theo nhóm giáo viên luôn là người theo dõi , hướng dẫn , kiểm tra học sinh , giúp các em làm việc có hiệu quả .
1. Sử dụng sách giáo khoa , thiết bị thí nghiệm và đồ dùng dạy học theo hướng tích cực .
 Sách giáo khoa là tài liệu chính của học sinh , viết cho học sinh sách giáo khoa vật lý 6 tạo điều kiện xây dựng tình huống có vấn đề, tổ chức các hoạt động nhận thức của học sinh ( thu thập thông tin , xử lý thông tin và rút ra kết luận ) . Giáo viên căn cứ vào hoạt động mà học sinh phải thực hiện theo hướng dẫn của sách giáo khoa để định ra phương pháp dạy mà chủ yếu là hỗ trợ, hướng dẫn tạo điều kiện cho học sinh thực hiện thành công các hoạt động học, làm trọng tài cho các cuộc thảo luận ở lớp để đi đến những kết luận hợp lý nhất, cung cấp thên cho học sinh những thông tin dữ liệu mà các em không có khả năng tự lực tìm kiếm trong giờ học .
 Trong môn vật lý 6 các thiết bị dạy học như dụng cụ thí nghiệm , mô hình , tranh vẽ , biểu bảng  phải được sử dụng không chỉ minh họa kiến thức , lời giảng của giáo viên mà còn là nguồn tri thức , là phương tiện để học sinh khai thác , tìm tòi , phát hiện và chiến lĩnh kiến thức . Giáo viên phải tạp điều kiện cho nhiều học sinh trải nghiệm trong thức tế khi làm thí nghiệm , tự đo đạc , quan sát vá rút ta kết luận , tạo điều kiện cho học sinh tìm hiểu cấu tạo , cách sử dụng một dụng cụ đo :cân Rôbecvan , lực kế , bình chia độ , nhiệt kế  thông qua việc nghiên cứu số liệu cỉa bảng biểu , học sinh có thể rút ra kết luận cấn thiết . thí dụ: qua bảng khối lượng riêng và rút ra được kết luận các chất khác nhau có khối lượng riêng kgác nhau .
2. Đổi mới đánh giá kết quả học tập của học sinh :
 Khi soạn các câu hỏi đánh giá kết quả học tập của học sinh, giáo viên cần kết hợp các hình thức đánh giá trắc nghiệm khách quan ( câu hỏi điền khuyết , câu hỏi nhiều lựa chọn , câu hỏi đúng sai ) với các câu hỏi tự luận ( yêu cầu học sinh trình bày phương án trả lời của mình .) 
 Khi thực hiện việc kiểm tra đánh giá , giáo viên nên tạo điều kiện cho học sinh tự đánh giá kết quả học tập của chính mình hoặc của các bạn trong lớp . chẳng hạn giáo viên tổ chức thảo luận thống nhất câu trả lời trước toàn lớp và cho học sinh tự chấm bài của mình hoặc đôi một tự chấm bài của nhau . 
* Tóm lại : 
 Để nâng cao hiệu qủa dạy học một tiết vật lý 6 tất cả các biện pháp nêu trên phải được giáo viên vận dụng một cách linh hoạt, phù hợp vời trình độ và kinh nghiệm sư phạm của mình phù hợp với khả nắng học tập của học sinh và điều kiện học tập của từng tiết học. Nhưng các tiết học phải luôn luôn tạo được không khí sôi nổi trong học tập, phải phát huy và thể hiện rõ vai trò điều khiển của giáo viên trong hoạt động đó .
III : Kết quả :
 Sau khi áp dụng những phương pháp nêu trênở lớp 6A còn lớp 6B không áp dụng phương pháp này . Tôi nhận thấy kêt qỷa học tập của học sinh lớp 6A cao hơn lớp 6B ở các bài kiểm tra cụ thể kết quả học tập học kỳ I năm học 2006 - 2007 như sau:
Lớp 
sĩ số 
 Kết quả học tập 
 Giỏi 
Khá
Trung bình
 Yếu 
 Kém 
T/ Số
Tỉ Lệ
T/ Số
Tỉ Lệ
T/ Số
Tỉ Lệ
T/ Số 
Tỉ Lệ 
T/ Số 
Tỉ Lệ
6A
25
6B
24
 Quan trọng hơn là các em học sinh rất phấn chấn , thích học lý , không còn cảm thấy lo lắng và ngại học môn vật lý nữa, như vậy nhờ việc nghiên cứu, áp dụng các biện pháp tích cực vào dạy học giúp học sinh chủ động trong học tập đạt kết quả cao hơn .
Phần thứ ba : Kết luận
I : Kết luận chung - Bài học kinh nghiệm 
 Để nâng cao kết quả học tập môn vật lý 6 ở bậc THCS , mỗi giáo viên phải nắm được phương pháp giảng dạy môn vật lý, vì phương pháp dạy học là cách thức, là con đường, là hệ thống và trình tự các hoạt động giữa giáo viên và học sinh . được giáo viên sử dụng để tổ chức, chỉ đạo và hướng dẫn học sinh tự lực và tích cực đạt tới kiến thức .
 Rèn luyện và phát triển kỹ năng các năng lực nhận thức cũng nhhw góp phần hình thành các phẩm chất, nhân cách mà mục tiêu dạy học đề ra . 
 Qua việc triển khái nghiên cứu đề tài này tôi thấy đề tài thực sự có kết quả, góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn vật lý 6 ở trường PTDT Nội trú Mường la Sơn la. Tuy nhiên đề tài còn những thiếu sót, tồn tại nhất định. Tôi kính mong các cấp chuyên môn góp ý cho đề tài này giúp tôi tìm được phương pháp dạy học môn vật lý 6 phù hợp nhất với đối tượng học sinh của trường PTDT
Nội trú - Mường la - S ơn la .
II : Phần kiến nghị :
 + Do đặc trưng bộ môn tôi rất mong phòng GD - ĐT M ường la tạo điều kiện cho trường PTDT nội trú phòng thí nghiệm, dụng cụ thí nghiệm vật lý 6 ( nếu có thể thì thêm thiết bị đèn chiếu ) để nâng cao hiệu quả dạy học .
 Bổ sung các tài liệu tham khảo để nâng cao nhận thức cho giáo viên và học sinh .
III : Kế hoạch nghiên cứu: 
 + Tháng 8 : xác định phương pháp nghiên cứu .
 Soạn thảo đề cương .
 + Tháng 9 : tham khảo tài liệu .
 Đăng ký đề tài .
 + Tháng 10 + 11 : thực hiện yếu cầu của đề cương .
 + Tháng 12 : hoàn thành đề tài .
 _ Trên đây là nội dung của đề tài mà tôi đã nghiên cứu và hoàn thành . Với năng lực có những hạn chế nhất định , tôi rất mong nhận được sự quan tâm đóng góp của các anh chị em đồng nghiệp để đề tài phong phú đạt hiệu quả cao hơn trong triển khai thực hiện./.
	Tôi xin chân thành cảm ơn !
 Mường la ngày .tháng ..năm 2007
	Người viết đề tài 
 Quàng thị Khoan 

File đính kèm:

  • docSANG_KIEN_KINH_NGHIEM_MON_VAT_LY.doc
Sáng Kiến Liên Quan