Sáng kiến kinh nghiệm Một số kinh nghiệm vận dụng quy tắc phân biệt lỗi hỏi, lỗi ngã cho học sinh tiểu học

Trong nền văn hoá dân tộc, ngôn ngữ có một ý nghĩa đặc biệt. Nhìn ở quá trình phát triển, ngôn ngữ dân tộc là một sáng tạo của cộng đồng xã hội. Nó hình thành từ xa xưa, thậm chí từ trước những ngày dân tộc ra đời. Khi được vận dụng trong giao tiếp hằng ngày của xã hội, nó không ngừng được trau dồi, được bổ sung và hoàn thiện để ngày một tinh xác hơn tương ứng với mức độ phong phú, khéo léo, tinh xảo của nền sản xuất vật chất và tinh thần của xã hội, để đạt tới khả năng diễn đạt được tất cả mọi ý tưởng của con người ở từng giai đoạn lịch sử nhất định.

Ngôn ngữ là một trong những đặc trưng cơ bản của dân tộc. Một cộng đồng người nếu không cùng chung tiếng nói thì làm sao gắn liền thành dân tộc?

Trong xã hội phát triển hiện nay, khi mà sự vận dụng chữ viết đạt một mức độ cực kỳ rộng lớn, việc viết đúng chính tả đối với con người hiện đại trở thành một yêu cầu không thể coi nhẹ. Theo giáo sự tiến sỹ Nguyễn Khánh Toàn: “phát âm thì có thể châm chước chứ chính tả thì phải chính xác”.

Nhà trường phổ thông, đặc biệt nhà trường tiểu học có một nhiệm vụ quan trọng vào bậc nhất là trau dồi ngôn ngữ cho học sinh, là đào tạo học sinh về mặt ngôn ngũ. Ngôn ngữ dạy trong nhà trường phải là ngôn ngữ chuẩn mực, chuẩn mực cả về chính tả. Cho nên cần phải đặt việc luyện chính tả thành vấn đề. Phải làm sao cho ngày càng nhiều học sinh đọc, viết đúng chính tả. Muốn vậy công việc rèn luyện phải tổ chức một cách thường xuyên, đúng phương pháp và có hiệu quả.

 

doc10 trang | Chia sẻ: lacduong21 | Lượt xem: 1022 | Lượt tải: 5Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số kinh nghiệm vận dụng quy tắc phân biệt lỗi hỏi, lỗi ngã cho học sinh tiểu học", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I. Lý do chọn đề tài
Giữ gìn sự trong sáng của Tiếng việt là một công việc có ý nghĩa quan trọng. Công việc này nhằm vào nhiều mục tiêu cụ thể khác nhau. Một trong những mục tiêu cơ bản nhất mà cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói: Phải làm sao cho “ở nước ta số người viết tốt, nói tốt... mỗi ngày một nhiều hơn. Yêu cầu này rất quan trọng vì xã hội ta đang phát triển, vì ta đang làm cách mạng tư tưởng và văn hoá và cách mạng khoa học kỹ thuật”. Muốn đạt tới mục tiêu này chúng ta nhất thiết phải lo tổ chức cho đông đảo quần chúng, học sinh đặc biệt là học sinh tiểu học được rèn luyện ngôn ngữ một cách có hiệu quả, nhất là đọc, viết đúng dấu hỏi, ngã.
Rèn luyện ngôn ngữ là một hoạt động giáo dục, giáo dục ngôn ngữ. Nó phải được xây dựng trên những cơ sở lý luận khoa học vững chắc. Nhưng rèn luyện đọc tốt, viết tốt không thể đơn thuần tập trung vào việc trang bị lý thuyết ngôn ngữ, lý thuyết khoa học về Tiếng việt mà trước hết là phải đưa người học vào hoạt động ngôn từ, vào thực tiễn đọc, viết một cách cụ thể, qua đó mà hình thành những kỹ năng, những thói quen đúng chuẩn. Muốn thế cần phải xác lập một quy trình thực hành, xây dựng một hệ thống những bài tập được cân nhắc, tính toán dựa trên các quy luật ngôn ngữ học, giáo dục học, tâm lý - ngôn ngữ học (cụ thể là các quy luật tiếp nhận và vận dụng tiếng mẹ đẻ), giúp học sinh - nhất là học sinh tiểu học có thói quen đọc và viết đúng dấu hỏi, ngã. Rèn luyện cho học sinh những năng lực cần thiết trong giao tiếp nhất là trong khi viết. Để đạt được mục đích ấy là cả một quá trình phấn đấu bền bỉ của toàn ngành giáo dục, của mọi trường học, trong đó mỗi một giáo viên đứng lớp đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành cho học sinh thói quen, kỹ năng đọc, viết đúng chính tả.
Là một người giáo viên được trực tiếp giảng dạy, tôi nhận thấy học sinh của miền Trung nói chung và của Quảng Bình nói riêng đều nói - đọc phân biệt thanh hỏi ngã chưa chuẩn nên khi viết thường phạm lỗi chính tả là lẫn lộn hai dấu thanh này. Có thể nói đây là loại lỗi phổ biến nhất. Chính vì vậy với mong muốn hình thành cho học sinh thói quen và kỹ năng vận dụng quy tắc phân biệt hỏi ngã khi đọc và viết, tôi đã chọn đề tài “Một số kinh nghiệm vận dụng quy tắc phân biệt lỗi hỏi -ngã lỗi cho học sinh tiểu học”.
II. Cơ sở lý luận và thực tiễn
1. Cơ sở lý luận:
Trong nền văn hoá dân tộc, ngôn ngữ có một ý nghĩa đặc biệt. Nhìn ở quá trình phát triển, ngôn ngữ dân tộc là một sáng tạo của cộng đồng xã hội. Nó hình thành từ xa xưa, thậm chí từ trước những ngày dân tộc ra đời. Khi được vận dụng trong giao tiếp hằng ngày của xã hội, nó không ngừng được trau dồi, được bổ sung và hoàn thiện để ngày một tinh xác hơn tương ứng với mức độ phong phú, khéo léo, tinh xảo của nền sản xuất vật chất và tinh thần của xã hội, để đạt tới khả năng diễn đạt được tất cả mọi ý tưởng của con người ở từng giai đoạn lịch sử nhất định.
Ngôn ngữ là một trong những đặc trưng cơ bản của dân tộc. Một cộng đồng người nếu không cùng chung tiếng nói thì làm sao gắn liền thành dân tộc?
Trong xã hội phát triển hiện nay, khi mà sự vận dụng chữ viết đạt một mức độ cực kỳ rộng lớn, việc viết đúng chính tả đối với con người hiện đại trở thành một yêu cầu không thể coi nhẹ. Theo giáo sự tiến sỹ Nguyễn Khánh Toàn: “phát âm thì có thể châm chước chứ chính tả thì phải chính xác”.
Nhà trường phổ thông, đặc biệt nhà trường tiểu học có một nhiệm vụ quan trọng vào bậc nhất là trau dồi ngôn ngữ cho học sinh, là đào tạo học sinh về mặt ngôn ngũ. Ngôn ngữ dạy trong nhà trường phải là ngôn ngữ chuẩn mực, chuẩn mực cả về chính tả. Cho nên cần phải đặt việc luyện chính tả thành vấn đề. Phải làm sao cho ngày càng nhiều học sinh đọc, viết đúng chính tả. Muốn vậy công việc rèn luyện phải tổ chức một cách thường xuyên, đúng phương pháp và có hiệu quả.
2.Cơ sở thực tiễn:
Trong quá trình dạy học và giáo dục, chúng ta thường hay đề cập đến mối quan hệ giữa giáo viên và học sinh cũng như ảnh hưởng của nó đối với quá trình dạy học. Bởi chính sự tác động qua lại của mối quan hệ này sẽ góp phần quyết định chất lượng của quá trình dạy học.
Cứ nhìn trẻ em trước tuổi đến trường tiểu học (từ 2 - 5 tuổi) học nói, chúng ta có thể thấy được nhiều điều đặc biệt, có thể nói là kỳ diệu nữa. Đó là các em không phải nhờ ai dạy cả. Từng bước một các em tiến tới phát âm giống như người lớn. Trong quá trình này, môi trường giao tiếp đóng vai trò vô cùng quan trọng. Nếu mọi người giao tiếp với trẻ đều phát âm chính xác thì sẽ giúp các em có những ngôn ngữ chuẩn xác. Đối với người dân Quảng Bình nói riêng và toán miền Trung nói chung, phát âm lẫn lộn giữa dấu hỏi, ngã nên dần dần sự phân biệt dấu hỏi, ngã trong trẻ rất khó khăn. Phát âm không đúng hỏi, ngã thì dẫn đến việc lẫn lộn trong khi viết là một điều dương nhiên. Chính vì vậy khi trẻ bước vào trường học, người giúp trẻ đọc, viết đúng chính tả đó là người thầy. Thầy giáo tiểu học giữ vai trò chủ động trong việc giáo dục tiểu học, giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về rèn luyện ngôn ngữ, cụ thể là viết đúng chính tả. Từ việc giáo dục, giúp đỡ cần hình thành cho học sinh ý thức tự giác, thích thú thực hiện nhiệm vụ học tập, vận dụng - kiểm tra quy tắc chính tả mọi lúc, mọi nơi. Các em phải học, phải đọc, phải viết mới nhớ được quy tắc chính tả lâu dài. Dần dần ý thức đọc, viết đúng dấu hỏi, ngã sẽ trở thành thói quen, kỹ năng của bản thân. Theo sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh biết tự kiểm tra, đánh giá và biết sửa chữa những lỗi sai trong bài làm của mình.
Trong quá trình giảng dạy, điều tôi nhận thấy rõ là đa số các em rất lúng túng khi phân biệt hỏi, ngã. Chính việc phân biệt dấu hỏi, ngã lẫn lộn ở các em đã tác động mạnh mẽ đến đội ngũ giáo viên. Qua các đợt khảo sát, nhất là các giờ dạy chính tả, tôi tháy rất ít em viết đúng, những học sinh viết đúng thường là những học sinh giỏi, các em viết với chính nhận thức của các em chứ không theo một quy tắc, quy luật nào. Đối với những trường thuộc vùng miền khó khăn, số lượng học sinh giỏi rất hạn chế vậy thì những em viết đúng chính tả là bao nhiêu? Bản thân tôi đã suy nghĩ và trăn trở rất nhiều. Phải làm gì và làm như thế nào để giúp các em viết đúng chính tả, góp một phần rất lớn vào quá trình giữ gìn sự trong sáng của Tiếng việt? Sau bao nhiêu suy nghĩ, tìm tòi nghiên cứu và trải nghiệm, tôi đã mạnh dạn đưa vào cách vận dụng quy tắc phân biệt dấu hỏi, ngã cho trường, cho lớp.
III. Thực trạng việc vận dụng quy tắc phân biệt hỏi, ngã ở trường tiểu học mỹ Thuỷ.
Ngay những năm đầu thay sách, thực hiện đổi mới giáo dục, trường tiểu học Mỹ Thuỷ đã triển khai thực hiện vận dụng quy tắc phân biệt hỏi, ngã. Tôi nhận thấy kỹ năng phân biệt của giáo viên được nâng lên rõ rệt, không khí lớp học sôi nổi hơn, các tiết chính tả đạt kết quả cao hơn và chất lượng khảo sát chính tả - nhất là phần bài tập phân biệt hỏi, ngã cũng vì thế mà được nâng cao hơn. Chính vì lẻ đó, bản thân tôi với cương vị là một người trực tiếp giảng dạy lớp 3, tôi luôn xác định cho mình bản lĩnh vững vàng, thể hiện rõ vai trò tiên phong trong việc vận dụng quy tắc phân biệt hỏi, ngã cho học sinh lớp 3 hiện nay ở trường tiểu học Mỹ Thuỷ. Sau đây tôi xin trình bày những nét cơ bản về tình hình, đặc điểm nhà trường và thực trạng của việc vận dụng quy tắc phân biệt hỏi ngã của giáo viên và học sinh
1. Đối với giáo viên:
Để giúp học sinh vận dụng tốt các quy tắc về dấu hỏi, ngã, giáo viên phải có quá trình nghiên cứu, học hỏi chu đáo, nghiêm túc, phải nắm vững từng quy tắc và cách vận dụng. Khi lên lớp, giáo viên cần phải xác dịnh mục tiêu và hiệu quả từng quy tắc, cần động viên, khuyến khích học sinh học thuộc và mạnh dạn vận dụng quy tắc ở mọi lúc, mọi nơi. Giáo viên cần chịu khó kiểm tra thường xuyên các quy tắc giúp học sinh ghi nhớ lâu và rõ ràng. Xây dựng phong trào thi đua học và vận dụng quy tắc giữa các tổ. Tổ chức các trò chơi có nội dung vận dụng quy tắc hỏi, ngã. Cần quan tâm nhiều hơn đến những đối tượng học yếu (nhất là kỹ năng phân biệt hỏi ngã)
2. Đối với học sinh:
Trong những giờ dạy vận dụng quy tắc chính tả, yêu cầu học sinh thực hiện một cách nghiêm túc, cụ thể và có hiệu quả. Để vận dụng được nhanh, đúng, yêu cầu học sinh phải học thuộc. Có thể tổ chức những giờ học nhóm, ngoại khoá để tự kiểm tra lẫn nhau, giúp học sinh có cơ hội và điều kiện năm vững quy tắc. Không chỉ giúp học sinh nắm vững cách vận dụng quy tắc mà qua những giờ học đó còn giúp các em mạnh dạn, tự tin khi đọc, viết.
Không chỉ nắm vững yêu cầu đối với giáo viên, học sinh mà trường chúng tôi đã mạnh dạn thực hiện tốt cách vận dụng các quy tắc dấu hỏi, ngã trong những giờ chính tả và ngoài giờ lên lớp. Chính nhờ thực hiện tốt các quy tắc mà tất cả giáo viên chúng tôi đã nhẹ nhàng hơn trong những bài tập điền dấu hỏi, ngã; phân biệt hỏi, ngã; học sinh hứng thú thực hành phân biệt hỏi, ngã; không khí lớp học sôi nổi hơn, nhất là số lượng học sinh biết phân biệ hỏi, ngã ngày càng tăng, kết quả mang lại thật đáng khích lệ.
* Tuy vậy trong quá trình giảng dạy tôi nhận thấy vẫn còn một số tồn tại chính:
Ben cạnh những kết quả đã đạt được, trường tiểu học Mỹ Thuỷ vẫn còn những bất cập ở giáo viên và học sinh nên hiệu quả đem lại chưa đáp ứng với yêu cầu của ngành. Trong khi thực hiện cách vận dụng quy tắc, một số giáo viên không chịu khó nghiên cứu, học hỏi, tư tưởng còn ngại khó; nhiều học sinh ý thức học chưa cao, lười học thuộc, lười vận dụng nên một số em vẫn còn lúng túng khi phân biệt hỏi, ngã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng học tập của các em. Sau đây là chất lượng chính tả đầu năm của học sinh lớp 3C:
* Chất lượng chính tả đầu năm của học sinh:
TS
Giỏi
Khá
TB
Yếu
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
24
4
16,7
12
50
6
25
2
8,3
* Kỹ năng phân biệt lỗi hỏi, ngã
TS
Tốt
Khá
TB
Chưa đạt
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
24
9
37,5
7
29,2
4
16,7
4
16,7
Trước thực trạng đó, vai trò của người giáo viên trong quá trình hướng dẫn học sinh vận dụng quy tắc phân biệt hỏi ngã hết sức nặng nề và còn nhiều khó khăn. Sau đây tôi xin mạnh dạn nêu ra một số quy tắc phân biệt hỏi, ngã mà trường chúng tôi đã thực hiện:
IV. Một số quy tắc vận dụng phân biệt hỏi, ngã.
1. Quy tắc trong từ láy:
Trong các từ láy của Tiếng việt có quy luật bổng, trầm. Thanh điệu tiếng ta, căn cứ vào độ cao chia làm hai nhóm: nhóm bổng (thuộc âm vực cao) gồm các thanh: sắc - hỏi - không và nhóm trầm (thuộc âm vực thấp) gồm các thanh: huyền - ngã - nặng. Trong từ láy, tiếng thứ nhất đã mang thanh bổng thì tiếng thứ hai cũng sẽ mang thanh bổng; ngược lại tiếng này đã mang thanh trầm thì tiếng kia cũng mang thanh trầm (độ 700 từ)
Ví dụ: 
a. Tương ứng giữa các thanh bổng
- Ngang + hỏi: nho nhỏ, lẻ loi, vui vẻ...
- Sắc + hỏi: Vắng vẻ, trắng trẻ, lảnh lót...
- Hỏi + hỏi: lỏng lẻo, đủng đỉnh, thủng thẳng...
b. Tương ứng giữa các thanh trầm:
- Huyền + ngã: sừng sững, rền rĩ, sẵn sàng...
- Nặng + ngã: rộng rãi, đẹp đẽ, chững chạc.
- Ngã + ngã: dễ dãi, nhễu nhão, nhõng nhẽo...
* Lưu ý: Chỉ có 16 từ láy “ngã + ngã”(nhễ nhãi, nghễnh ngãng, rỗi rãi, võ vẽ, cũ kỹ, mũm mĩm, bỗ bã, dõ dễ, õng ãnh, nhũng nhẵng, chỡm chãm, chũn chĩn, lỗ lã và 3 từ trên), số còn lại (hỏi + hỏi) độ 60 từ.
Để nhớ quy tắc này, ta phải thuộc câu:
Chị Huyền, mang Nặng, Ngã đau
Anh Sắc Không Hỏi một câu gọi là
Mẹo này có nghĩa là gặp một từ láy có một tiếng mình băn khoăn không biết hỏi hay ngã thì nhìn ở tiếng đi cùng: nếu tiếng này có thanh huyền, hoặc ngã, hoặc nặng thì cứ viết ngã; nếu có thanh sắc, hoặc hỏi, hoặc không thì cứ viết hỏi. Còn gặp một từ không biết nên viết hỏi hay ngã thì tạo một từ láy; nếu tạo được thì theo luật bổng trầm như nói trên mà quyết định. 
Ví dụ:
- Nó không chịu nghỉ tay.--> nghỉ (hỏi hay ngã) --> nghỉ ngơi --> viết với hỏi: nghỉ (vì ngơi thanh không, thuộc nhóm bổng - sắc, hỏi, không)
- Nó không chịu suy nghĩ --> nghĩ (hỏi hay ngã?) --> nghĩ ngợi --> viét với ngã: nghĩ (vì ngợi thanh nặng thuộc nhóm trầm - huyền, ngã, nặng)
Có một vài ngoại lệ cần nhớ: ngoan ngoãn, se sẽ (khe khẽ) , ve vãn, nông nỗi, bền bĩ, niềm nở, phỉnh phờ, hẳn hoi, luồn lỏi, nài nỉ, hồ hởi, xài xể, mình mẩy, bẽ bàng, lẳng lặng, vẻn (vơn) vẹn (16 từ)
2. Quy tắc trong từ Hán Việt
Với từ Hán Việt để giải quyết vấn đề hỏi, ngã có thể dựa vào mẹo sau:
Mình nên nhớ viết là dấu ngã.
Câu này thể hiện quy luật là một yếu tốt Hán Việt bắt đầu bằng m (mình), n (nên), nh (nhớ), v (viết),l (là), d (dấu), ng(ngã) thì viết là dấu ngã đúng như mẹo đã nêu trên. Ví dụ:
- Bắt đầu băng m: mã lực, mẫn cảm, giờ mão...
- Bắt đầu bằng n: Truy nã, nỗ lực, trí não...
- Bắt đầu bằng nh: nhẫn nại, nhũng nhiễu, nhãn hiệu..
- Bắt đầu bằng v: vũ khí, vĩ tuyến, vũ lực..
- Bắt đầu bằng l: lãnh đạm, lãng phí, lễ độ...
- Bắt đầu bằng d: dã man, dũng khí, dĩ vãng...
- Bắt đầu bằng ng: nghĩa vụ, hàng ngũ, ngưỡng mộ...
Ngoại lệ: ngải cứu (tên một cây thuốc)
Ngoài 7 phụ âm đã nêu, từ Hán Việt đi với phụ âm đầu khác hoặc không có phụ âm đầu (bắt đầu bằng nguyên âm thì viết là dấu hỏi. Trường hợp viết dấu ngã có khoảng 30 từ ngoại lệ, được tác giải Phan Ngọc trình bày trong một bài thơ như sau để ta dễ nhớ:
Kỹ tài, bãi bỏ, bĩ đen
Hữu bạn, phẫu mổ, tĩnh yên, cữu hòm
Tiễn đưa, tiễu diệt, trẫm vua
Trĩ trẻ, trữ cất, huyễn mê, hỗ cùng.
Hỗn loạn, hãm hại, đãng buông
Quẩn khốn, hữu có, đãng đường thênh thang
Xã xã, hoãn chậm, quỹ rương
Suyễn suyễn, quỹ giấu, tiễn tên, tiễn làm
Hữu phải, cưỡng ép, trĩ chim
Tuẫn chết, kỹ hát, dễ em, sĩ trò
Chú thích: 
- Kỹ: kỹ thuật, kỹ xảo
- Bãi: bãi khoá, bãi công
- Bĩ: bĩ cực, vận bĩ
- Phẫu: phẫu thuật, giải phẫu
- Hữu: bằng hữu, hữu nghị, hữu ích, tư hữu.
- Tiễn: tiễn biệt, tống tiễn, thực tiễn
- Hỗn: hỗn loạn, hỗn chiến
- Đãng: phóng đãng, quang đãng
- Xã: xã hội
- Quỹ: công quỹ, thủ quỹ
- Suyễn: hen suyễn
- Hoãn: trì hoãn
- Cưỡng: cưỡng bức
- Hỗ: hỗ trợ
- Hãm: hãm hại
- Sĩ: tiến sĩ, bác sĩ
- Trĩ: ấu trĩ
- Trữ: tích trữ, dự trữ
- Quẫn: khốn quẫn
- Huyễn: huyễn hoặc
- Cữu: linh cữu
- Trẫm: vua
Học thuộc bài thơ trên, có thể viết đúng hỏi, ngã cho vài nghìn từ Hán Việt.
3. Quy tắc ngữ nghĩa:
Những từ song thức (từ mà âm, nghĩa giống nhau vì có cùng nguồn gốc) về mặt thanh điệu cũng được phân bố theo quy luật bổng trầm. Từ đó ta có hai mẹo sau:
- Lãi - lời - lợi
- Tản - tán - tan
Những mẹo này chỉ rõ khi ta đứng trước một từ không biết nên viết hỏi hay ngã mà tìm được một dạng song thức viết với ngã, hoặc huyền, hoặc nặng (lãi - lời - lợi) thì cứ viết dấu ngã; ngược lại, nếu tìm được một dạng song thức viết với hỏi, hoặc sắc, hoặc không (tản - tán - tan) thì cứ viết dấu hỏi. Ví dụ:
* Mẹo lãi - lời - lợi:
- Lãi - lờ: chĩa - chìa; cõi - còi; đẫy - đầy... 
- Lãi - lợi: đỗ - đậu; lưỡi - lợi...
- Lãi - lãi: bẻn lẻn, rữa - vữa; quẫy - vẫy...
* Mẹo Tản - tán - tan:
- Tản - tán: bảo - báo, bản - vốn...
- Tản - tan: quẳng - quăng, tủa - tua, vểnh - vênh
- Tản - tản: bổ - mổ, phỏng - bổng, rủ - nhủ...
Tiếng Việt có độ 1.900 chữ mang dấu hỏi, 900 chữ mang dấu ngã. Khi phân biệt, ta cần vận dụng những quy tắc trên. đối với những chữ không quy tắc, ta phải ghi nhớ máy móc. Ví dụ: Trừ 4 phó từ khởi đầu bằng ch (chẳng, chả, chửa, chỉ), các phó từ còn lại đều mang dấu ngã (11 từ): mỗi, những, bỗng, cũng, vẫn, hãy, hẵng, đã sẽ, mãi, nữa.
V/ Kết quả đạt được
Quá trình thực hiện cách vận dụng quy tắc phân biệt hỏi - ngã với thời gian khá dài, trường Tiểu học Mỹ Thuỷ chúng tôi đã đạt được những kết quả sau:
* Về giáo viên: Tất cả giáo viên đã nắm vững và vận dụng có hiệu quả quy tắc phân biệt hỏi - ngã vào những giờ học chính tả, tập đọc, giúp giờ học nhẹ nhàng hơn, trò thích học và thầy thích dạy hơn. Chất lượng dạy học ngày một nâng cao.
* Về học sinh: Các em đã thực sự biết phân biệt hỏi - ngã. Nắm chắc và vận dụng tốt quy tắc trong những giờ học chính tả phân biệt hỏi - ngã, kích thích học sinh hứng thú học tập. Chính vì vậy mà kỹ năng phân biệt hỏi ngã của học sinh được nâng cao rõ rệt.
 Kết quả đạt được: 
* Kỹ năng phân biệt hỏi ngã:
Tốt
Khá
TB
SL
%
Giảm
Tăng
SL
%
Giảm
Tăng
SL
%
Giảm
Tăng
18
75
0
37,5
4
16,7
12,5
0
2
8,3
8,4
* Chất lượng chính tả đợt 4 lớp 3C
TS
Giỏi
Khá
TB
SL
%
Tăng
Giảm
SL
%
Tăng
Giảm
SL
%
Tăng
Giảm
24
8
33,3
16,6
16
66,7
16,7
* Đối với nhà trường:
Nhà trường thường xuyên quan tâm, giúp đỡ, tạo điều kiện bồi dưỡng năng lực chuyên môn cho đội ngũ giáo viên, tổ chức thảo luận, góp ý nhằm nâng cao chất lượng dạy học. Nhờ vậy mà trong những năm gần đây kỹ năng phân biệt đúng dấu hỏi, ngã của học sinh đã được tăng lên rõ rệt.
* Về phụ huynh: Các bậc phụ huynh đã thực sự quan tâm tạo điều kiện, thời gian cho con em mình học tập tốt hơn những năm trước đây.
Để thực hiện tốt công tác đổi mới trong quá trình dạy học, quả thật còn cần có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường - gia đình và xã hội.
VI. Bài học kinh nghiệm
Qua quá trình giảng dạy, vận dụng và thực hiện các quy tắc phân biệt hỏi - ngã cho học sinh. Tôi nhận thấy chất lượng đọc, viết chính tả được nâng cao rõ rệt. Tuy kinh nghiệm chưa nhiều, song tôi cũng xin mạnh dạn nêu ra một số ‎ kiến để các bạn đồng nghiệp tham khảo, vận dụng trong quá trình giảng dạy đó là:
1. Muốn học sinh có kỹ năng vận dụng và thực hiện đúng lỗi hỏi, ngã thì điều đầu tiên là người giáo viên phải kiên trì, chịu khó dẫn dắt học sinh thuộc và nắm được luật “hỏi - ngã”
2. Ngôn ngữ của giáo viên phải chuẩn, chính xác, rõ ràng khi đọc tiếng mang dấu hỏi - ngã
3. Phải biết thu hút học sinh, tạo hứng thú học tập cho các em trong mọi họat động học tập. đặc biệt giáo viên phải rèn cho mình kỹ năng phân biệt hỏi - ngã tốt.
4. Phải biết kết hợp các biện pháp, phwong pháp và hình thức dạy học một cách khéo léo, phù hợp để phát huy hết khả năng sáng tạo của học sinh. Học sinh nắm và vận dụng tốt, làm cho giờ học diễn ra nhẹ nhàng, tự nhiên, hiệu quả.
5. Phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường – gia đình – xã hội giúp học sinh học tập tốt hơn nhằm thực hiện tốt công tác đổi mới giáo dục trong quá trình dạy học.
VI. Kết luận
Giáo dục tiểu học là bậc học nền tảng trong hệ thống giáo dục quốc dân. Trong giáo dục tiểu học, các nội dung dạy học với dung lượng kiến thức cung cấp cho học sinh tuy chưa nhiều nhưng là những kiến thức rất cần thiết, làm cơ sở để hình thành nhân cách con người Việt Nam dưới chế độ ưu việt của chúng ta, góp một phần lớn vào quá trình giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt.
Vì vậy muốn nâng cao số lượng học sinh đọc, viết đúng chính tả thì không chỉ trách nhiệm của những người giáo viên đứng lớp mà đó là trách nhiệm của cộng đồng xã hội. Đó là công việc lâu dài, thường xuyên. Cho nên toàn xã hội phải quan tâm, chăm lo. Vì: “Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển”. Hơn ai hết là những người giáo viên được trực tiếp dạy học sinh tiểu học, bản thân tôi luôn xác định cho mình trách nhiệm to lớn trong quá trình rèn luyện ngôn ngữ cho học sinh, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt.
Trên đây là một số ‎ kiến nhỏ của bản thân, để có tác dụng thiết thực
hơn, rộng rãi hơn, có hiệu quả hơn rất mong sự đóng góp tích cực của các cấp trên và các bạn đồng nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
	Mỹ Thuỷ, ngày 20 tháng 5 năm 2008	
	Xác nhận của hđkh 	Người viết
	Nhà trường
	Nguyễn Thị Hồng

File đính kèm:

  • docSKKN van dung quy tac..Nguyen Thi Hong- PHT TH MI).doc
Sáng Kiến Liên Quan