Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp của giáo viên chủ nhiệm nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức học sinh

Nhiệm vụ của GVCN trong công tác giáo dục đạo đức

Với GVCN công tác giáo dục đạo đức là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Đạo

đức học sinh trong lớp quyết định nề nếp thi đua của lớp được nâng cao, đẩy mạnh

phong trào thi đua học tốt, chuyên cần, duy trì sĩ số.

Giáo viên chủ nhiệm là lực lượng chính trong công tác giáo dục đạo đức học

sinh, là người quản lý mọi hoạt động của lớp học, là người triển khai mọi hoạt

động của nhà trường đến từng học sinh. Giáo viên chủ nhiệm được xem như là

người cha người mẹ thứ hai trong cộng đồng trường học. Họ đóng vai trò quyết

định thành công đến sự hình thành nhân cách học sinh kể từ khi học sinh bắt đầu

đặt chân đến trường học, thông qua nhân cách của giáo viên chủ nhiệm mà học

sinh có thể xem đó là tấm gương để soi rọi mình mỗi khi làm một việc gì sai trái.

Giáo viên chủ nhiệm lớp là người chịu trách nhiệm thực hiện mọi quyết định quản

lý của hiệu trưởng đối với lớp và các thành viên trong lớp. GVCN lớp là người

vạch kế hoạch, tổ chức cho lớp mình thực hiện các chủ đề theo kế hoạch và theo

dõi, đánh giá học sinh. GVCN lớp phải biết phối hợp với cán bộ lớp, các GV bộ

môn, hội CMHS, để làm tốt công tác dạy - học - giáo dục HS trong lớp phụ trách.

Nhà trường, gia đình và xã hội có vai trò giáo dục khác nhau đối với sự hình

thành và phát triển phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống của HS. Trong mối quan

hệ đó thì nhà trường được xem là trung tâm, chủ động, định hướng trong việc phối

hợp với gia đình và xã hội. Nhà trường là môi trường giáo dục toàn diện nhất, là cơ

quan nhà nước thực hiện chức năng giáo dục chuyên nghiệp nhất nên nhà trường là

lực lượng giáo dục có hiệu quả nhất, hội tụ đủ những yếu tố cần thiết để có thể huy

động sức mạnh giáo dục từ phía gia đình và xã hội.

Có một thực trạng tồn tại là các tệ nạn xã hội như đề đóm, cờ bạc, nghiện hút,

điện tử, cũng xuất hiện, làm đảo lộn vẩn đục môi trường giáo dục đạo đức,

không ngừng ảnh hưởng đến đạo đức, nhân cách và lối sống của HS. Nhà trường

dù là một pháo đài vững chắc nhưng vẫn có thể bị "tập kích" từ phía ngoài. Thực

tiễn cuộc sống, nhất là cuộc sống xã hội đang có các nhân tố của kinh tế thị trường

tác động đến nhà trường, có lúc nhẹ nhàng, có khi sôi động dồn dập. Xã hội ô

nhiễm, luồng văn hoá ngoại lai, đồi trụy, bạo lực. len lỏi vào mọi tầng lớp nhân

dân đã rất dễ gây ấn tượng và phản ảnh sâu đậm đối với các em.

pdf50 trang | Chia sẻ: thuydung3ka2 | Ngày: 02/03/2022 | Lượt xem: 981 | Lượt tải: 4Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp của giáo viên chủ nhiệm nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức học sinh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ợc uốn nắn, khắc phục. 
 Nhưng cần lưu ý rằng phải giao tiếp ở một góc độ cởi mở, tâm lý, tế nhị 
nhưng chân tình, tránh sự dồn dập, gay gắt nên dùng những lời lẽ như nhờ họ nhắc 
nhỡ thêm , làm như vậy phụ huynh sẽ cảm thấy GV rất lo lắng và quan tâm đến 
con em mình, từ đó họ sẽ chung tay cùng giáo dục. Có như vậy giáo viên chủ 
nhiệm mới tạo được với phụ huynh sự tin tưởng và tận tâm hợp tác để giáo dục con 
em họ tốt hơn. 
 - Với Ban giám hiệu: Tham mưu thường xuyên, nhờ sự “trợ giúp” kịp thời 
của Hiệu trưởng và Phó Hiệu trưởng khi cần thiết nhằm có những giải pháp thiết 
thực, phù hợp từng thời điểm hoặc nhờ Ban giám hiệu trao đổi riêng với các học 
sinh có đạo đức chưa tốt xem như là “đưa lên cấp cao hơn” đối với những trường 
hợp thường xuyên tái phạm lại lỗi cũ sau nhiều lần đã được xử lý ở lớp. 
 - Với tổ chức Đoàn: Trong các hoạt động vui chơi, giải trí, các hoạt động 
ngoài giờ, nhiều em học sinh có đạo đức chưa tốt lại tỏ ra xông xáo, thể hiện sở 
thích, năng lực của bản thân. Qua đó có thể tùy theo khả năng từng đối tượng mà 
giao nhiệm vụ, mà phân công để các em cùng tham gia với tập thể. Từ đó, cảm 
giác bị “cô lập”, bị bỏ rơi của các em sẽ được xóa dần. 
 - Với giáo viên bộ môn : Giáo viên bộ môn có một phần trách nhiệm đối với 
việc giáo dục học sinh có đạo đức chưa tốt ở các lớp. Khi lên lớp, cần chú ý đến 
các đối tượng học sinh này, cần tìm cách tạo ra “cơ hội học tập tốt” bằng các câu 
hỏi dễ hay bài tập đơn giản. Và hãy đừng quên tặng một lời khen khi các em có sự 
tiến bộ dù rất ít. 
 Là giáo viên chủ nhiệm, việc phối hợp với gia đình học sinh là rất cần thiết, 
nếu thấy các em có biểu hiện xấu thì có biện pháp ngăn chặn kịp thời. Nếu ngăn 
chặn kịp thời sẽ giúp ngăn ngừa nguy cơ học sinh chưa ngoan trở thành “học sinh 
hư” và giúp các em nhanh chóng “phục thiện” nhưng một điều quyết định là thầy 
cô chủ nhiệm phải tận tâm, môi trường giáo dục phải tốt. 
 2.3.10. Xây dựng “Lớp học thân thiện, học sinh tích cực” 
35 
 Bộ giáo dục và Đào tạo phát động phong trào “Xây dựng trường học thân 
thiện, học sinh tích cực” nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đặc biệt là 
giáo dục đạo đức, nhân cách và kĩ năng sống cho học sinh. “Xây dựng lớp học thân 
thiện” là tạo ra môi trường học tập thân thiện, an toàn, gần gũi với học sinh, làm 
cho học sinh cảm thấy “Mỗi ngày đến trường là một ngày vui”. Tôi tiến hành từng 
bước như sau: 
 * Xây dựng mối quan hệ thầy trò: 
 Ngay những buổi học đầu tiên, tôi đã chú ý xây dựng mối quan hệ thầy trò 
gần gũi, thân thiện. Tạo cơ hội cho các em tâm sự về những khó khăn, vướng mắc 
mà các em đang gặp phải, thường xuyên lắng nghe ý kiến của học sinh. Cứ sau một 
tháng, tôi còn động viên các em tâm sự thật lòng thông qua hình thức phiếu kín hãy 
nói một điều mà em thấy khó nói nhất vào giấy- không cần ghi tên, chữ viết có thể 
thay đổi kiểu chữ để cô không nhận ra đó là lời tâm sự của bạn nào. Thông qua 
hình thức này, tôi đã thu thập được rất nhiều thông tin mà trò khó nói nhất, thậm 
chí chưa dám nói với ai mà ngay cả khi trao đổi với phụ huynh, họ cũng rất bất 
ngờ. 
 VD : 
 - HS1: Em buồn vì lúc nào mẹ cũng so sánh em với con người ta. 
 - HS2: Em vô cùng khổ sở vì về đến nhà, bố mẹ bắt học quá nhiều, bắt học 
suốt ngày bất chấp thời gian. 
 - HS3: Bà và mẹ e thường xuyên cãi nhau. Lúc em ở bên bà thì bà nói xấu 
mẹ. Lúc em ở bên mẹ thì mẹ nói xấu bà. Em rất buồn chán. 
 - HS4: Em buồn vì bố mẹ em sống không hạnh phúc. 
 - HS5: Cô A hay để ý em quá. 
 - HS6: Em muốn được yêu nhưng bố mẹ cấm, còn xúc phạm em nữa. 
 Thông qua các ý kiến thầm kín của học sinh, bản thân giáo viên cũng cần phải 
tự điều chỉnh hành vi của mình. Ngoài ra, giáo viên chủ nhiệm tìm cách phân tích 
giảng giải cho các em những băn khoăn về tâm sinh lý mà các em giấu kín không 
dám thổ lộ với ai. Những thông tin con viết về phía gia đình, giáo viên sẽ chủ động 
đóng thành từng tập rồi chuyển cho các bậc cha mẹ đọc trong buổi họp phụ huynh. 
Từ đó, bố mẹ sẽ hiểu được tâm tư nguyện vọng của các em và thông qua lời tâm sự 
đó có thể phán đoán được lời tâm sự của con mình và cùng giáo viên chủ nhiệm có 
biện pháp giáo dục phù hợp cho các em. 
 Khi có học sinh mắc sai lầm, thiếu sót, tôi luôn cố gắng kiềm chế và tôn trọng 
học sinh, tìm hiểu cặn kẽ thấu đáo nguyên nhân để có biện pháp giúp đỡ các em 
sửa chữa; không nên có những lời nói, cử chỉ xúc phạm các em. Ở lứa tuổi này, 
lòng tự trọng của các em rất cao, chỉ một lời nói xúc phạm sẽ làm các em chán nản, 
nhụt chí phấn đấu. 
36 
 Hằng ngày, tôi luôn khích lệ và biểu dương các em kịp thời, khen ngợi những 
ưu điểm của các em nhiều hơn là phê bình. Tôi cố tìm ra những ưu điểm nhỏ nhất 
để khen ngợi động viên các em. Nhưng trong khi khen, tôi cũng không quên chỉ ra 
những thiếu sót để các em khắc phục và ngày càng hoàn thiện hơn. 
 Khi nói chuyện, khi giảng, cũng như khi nghiêm khắc phê bình lỗi lầm của 
học sinh, giáo viên cần thể hiện cho các em thấy tình cảm yêu thương của một 
người thầy đối với học trò. Theo qui luật phản hồi của tâm lí, tình cảm của thầy cô 
trước sau cũng sẽ được đáp lại bằng tình cảm của học trò. Lòng nhân ái, bao dung, 
đức vị tha của người thầy luôn có sức mạnh to lớn để giáo dục và cảm hóa học 
sinh. “Lớp học thân thiện” chỉ có được khi người thầy có tấm lòng nhân hậu, bao 
dung, hết lòng vì học sinh thân yêu của mình. 
 * Xây dựng mối quan hệ bạn bè: 
 Trong cuộc sống của mỗi con người, ngoài những người thân trong gia đình 
ra, ai cũng cần có bạn bè để chia sẻ. Nếu các em có nhiều bạn bè thân thiết trong 
lớp thì các em sẽ hợp tác vui vẻ với nhau và sẽ giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Em học 
giỏi sẽ giúp những em học yếu; ngược lại, em học yếu cũng dễ dàng nhờ bạn giúp 
đỡ mình học tập mà không phải e ngại, xấu hổ. 
 Để xây dựng mối quan hệ bạn bè thân thiết, đoàn kết, gắn bó, sẵn sàng giúp 
đỡ nhau trong học tập, tôi luôn tạo ra các hoạt động, các vấn đề đòi hỏi sự hợp tác 
của nhiều học sinh.Tôi khuyến khích học sinh tự viết ra những điều em chưa đồng 
ý về việc làm, cách cư xử của lớp trưởng, lớp phó hoặc của một bạn nào đó trong 
lớp chứ không nói xấu, không xa lánh bạn. Căn cứ vào những điều các em viết ra, 
nếu là những điều tốt thì tôi đọc cho cả lớp nghe rồi tuyên dương ngay trước lớp. 
Còn những điều các em phê bình thì tôi phải điều tra nắm rõ đúng hay sai. Sau đó 
mới góp ý riêng với những học sinh bị bạn phê bình, yêu cầu các em phải xin lỗi 
bạn và phải sửa chữa. 
 * Trang trí lớp học gần gũi với học trò: 
 Lớp học thân thiện phải luôn sạch sẽ, ngăn nắp và được trang trí đẹp, đảm bảo 
tính thẩm mĩ và tính giáo dục cao. Trang trí lớp đẹp, hài hòa đảm bảo tính thẩm mĩ 
và tính giáo dục. Chính vì vậy, các em luôn coi lớp học là nhà của mình - gần gũi, 
thân thương. 
37 
Hình ảnh lớp học 10A1 
 Hình ảnh lớp học 10A1 sau trang trí 
38 
 * Dạy học sinh học sử dụng Internet đúng cách: 
 - Internet chứa đựng cả thế giới kiến thức rộng lớn và những điều hấp dẫn có 
thể mở rộng tâm hồn các em. Những kiến thức phù hợp với lứa tuổi của các em sẽ 
giúp giáo dục và nâng cao kiến thức cho chúng. Vì vậy là một GVCN trong xã hội 
hiện đại, chúng tôi luôn suy nghĩ là làm thế nào để các em tiếp xúc và sử dụng với 
internet một cách đúng đắn và an toàn? 
 - Dạy các em sử dụng đúng mục tiêu: Giới thiệu và hướng cho học trò niềm 
say mê một môn học nào đó cần sử dụng máy tính, để các em sử dụng nó vào mục 
đích học tập của mình. Ví dụ sử dụng máy tính đối với các dạng toán cần, vẽ trên 
máy tính GVCN phối hợp với phụ huynh phải hạn chế đến mức tối đa việc các 
em tiếp xúc với các trò chơi có tính bạo lực hoặc gây kích thích thần kinh. Bên 
cạnh đó, GVCN cũng yêu cầu các em nộp thời gian biểu việc sử dụng internet ở 
nhà có chữ kí của phụ huynh để phụ huynh cùng phối hợp với GVCN quản lí các 
em chặt chẽ. 
 - Song hành cùng học trò: Không cần tẩy chay internet. Trò chơi “sạch”, kiến 
thức “sạch”, những trang web “sạch” là điều mà GVCN, các bậc phụ huynh nên 
cho con tiếp cận và ngược lại, những trò chơi bạo lực, những kiến thức “dạy dỗ” 
xấu hay những trang web “đen” là điều mà chúng ta cần giúp các em tránh xa. 
 - Máy tính là một công cụ hỗ trợ học tập, là một phương tiện giải trí hữu ích, 
nhưng GVCN cũng cần cho các em tham gia vào các hoạt động thể chất khác để 
rèn luyện sức khỏe và khám phá cuộc sống xung quanh. 
 2.3.11. GVCN phải gần gũi, quan tâm, theo dõi, uốn nắn, quản lí chặt 
chẽ, xử lý kịp thời 
 - GVCN phải thương yêu học sinh, tìm hiểu và nắm bắt hoàn cảnh, tâm sinh lí 
của học sinh, biết được sự quan tâm của gia đình đối với từng học sinh. 
 - GVCN nên dành thời gian để trò chuyện tâm sự cùng với học sinh để các 
em cảm thấy thân thiện, tự tin hơn. 
 - Đến thăm lớp thường xuyên. 
 - Thường xuyên họp cán bộ lớp. 
 - Thường xuyên tổ chức lấy ý kiến đóng góp của tập thể học sinh lớp về sự 
lãnh đạo lớp của cán bộ lớp. 
 - Đối với những học sinh nghịch GV nhắc nhở khuyên bảo các em. 
 - Đối với học sinh sai lệch đạo đức do tâm lí lứa tuổi thay đổi: GV nên trò 
chuyện với các em để tư vấn thêm cho các em, giúp các em nhận ra sai trái, có 
những suy nghĩ đúng. 
 - Phối hợp với ban cán sự lớp, giáo viên bộ môn và bí thư đoàn trường theo 
dõi học sinh qua từng tiết học, buổi học và các hoạt động, đặc biệt là giáo viên bộ 
39 
môn, GVCN có thể gặp riêng từng giáo viên để trao đổi hoặc thông qua các buổi 
họp tổ chuyên môn hàng tuần, thông báo về tình hình vi phạm của học sinh lớp 
mình và đồng thời lắng nghe ý kiến phản ánh của giáo viên bộ môn về học sinh 
lớp mình và nhờ giáo viên bộ môn nhắc nhở, rèn luyện thêm, không nên bao che, 
bênh vực những vi phạm của học sinh. 
 - GVCN phân công một số em có đạo đức tốt theo dõi, giúp đỡ những em vi 
phạm. 
 - Khi phát hiện những hành vi sai trái cần xử lí kịp thời để ngăn chặn học sinh 
tiếp tục vi phạm. 
 - Đối với những HS vi phạm mang tính bột phát: GV nên cho HS tự nhận 
khuyết điểm và nêu hướng khắc phục. 
 - Đối với HS vi phạm nặng, mang tính thường xuyên: GVCN phối hợp với bí 
thư đoàn trường để có biện pháp xử lí như lập biên bản, hạ hạnh kiểm, phối hợp 
với nhà trường mời phụ huynh đến để kí cam kết cùng giáo dục. 
 2.3.12. Tuân thủ những vấn đề có tính chất quan trọng trong quá trình 
giáo dục đạo đức học sinh 
 - Biết kiềm chế tâm trạng khi cần thiết và không vội vàng phê phán các em 
khi chưa tìm hiểu sõ nguyên nhân. 
 - Không để xảy ra trường hợp tranh cãi tay đôi với học sinh làm mất uy tín 
giáo viên đối với những học sinh còn lại. 
 - Không nhắc nhở theo hình thức “vơ đũa cả nắm”, trước khi nhắc nhở thì học 
sinh cần phải được “tâm phục khẩu phục” tự nhận về những lỗi lầm của mình. 
Trường hợp đang có chuyển biến tích cực nên bỏ động viên. 
 - Những hình thức phạt có thể chặn đứng ngay một số vi phạm nhỏ: 
 + Đề nghị HS khi hết giờ phải ở lại nói chuyện riêng với cô 
 + Phạt viết bài phát biểu cảm nghĩ về những hành động sai trái của mình đã 
làm và phương hướng khắc phục hậu quả đó. 
40 
CHƯƠNG 3: THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM 
 3.1. Thực nghiệm sư phạm 
Sau khi thực hiện những biện pháp trên với lớp 10A1,10C2 chỉ qua một học 
kì 1 năm học 2020 - 2021 nhưng lớp đã đạt được nhiều kết quả khả quan. 
Việc phân công nhiệm vụ rõ ràng cho từng HS trong Ban cán sự lớp đã đem 
lại hiệu quả trong việc quản lí nề nếp và chất lượng học tập. Các em thực hiện 
nhiệm vụ đầy đủ với tinh thần trách nhiệm cao. Lập sơ đồ lớp như trên đã đưa lại 
hiệu quả rõ rệt trong học tập của học sinh. Vì vậy, đã giúp HS từ bỏ thói quen thụ 
động, trông chờ, ỷ lại trong học tập, góp phần vào công cuộc đổi mới chống tiêu 
cực trong thi cử mà ngành giáo dục đang thực hiện. 
 GVCN đã thực hiện tốt vai trò và trách nhiệm trong việc phối hợp với các tổ 
chức, đoàn thể trong và ngoài nhà trường có hiệu quả về công tác giáo dục đạo đức 
cho HS yếu kém, HS cá biệt và loại bỏ được nguy cơ bỏ học giữa chừng. Ví dụ: 
HS Lê Thị Thu Trang, Nguyễn Thị Hoài Anh, Nguyễn Đăng Thọ. Lớp 10A1 đảm 
bảo sĩ số 42/42. Lớp 10C2 đảm bảo sĩ số 42/42. 
Theo thời gian, những bài học về đạo đức, nhân cách trong tiết sinh hoạt lớp 
giúp HS luôn nhớ, vững bước hơn trước những khó khăn trong cuộc sống. 
 Được sự đồng tình, nhất trí cao của Ban giám hiệu, phụ huynh, học sinh nỗ 
lực thực hiện tốt công tác trải nghiệm sáng tạo. 
41 
 Thực tế trong công tác giáo dục đạo đức học sinh của lớp chủ nhiệm trong 
thời gian qua, việc áp dụng các biện pháp trên đã mang lại những hiệu quả giáo 
dục nhất định: Đa số học sinh chăm ngoan, lễ phép, vâng lời thầy cô giáo, thực 
hiện tốt nội quy học sinh hơn các lớp khác. 
 3.2. Chọn lớp thử nghiệm và đối chứng 
Sau thời gian áp dụng đề tài tại đơn vị trường THPT Đô Lương 2. Để khẳng 
định hiệu quả của hoạt động chủ nhiệm lớp trong việc giáo dục đạo đức học sinh đề tài 
tiến hành theo hình thức song hành với 2 cặp lớp của Trường THPT Đô Lương 2 đối 
chứng và thử nghiệm, Lớp 10A1(cô Trường chủ nhiệm) có 42 HS và lớp 10C2(cô 
Hằng chủ nhiệm) có 42 HS (sử dụng các biện pháp trong sáng kiến), lớp 10A2 có 41 
HS và lớp 10C4 có 42 HS (không sử dụng các biện pháp trong sáng kiến). Trước khi 
tiến hành, đã lựa chọn 2 cặp lớp (10A1và 10A2;10C2 và 10C4) có các mức độ đánh giá 
đạo đức tương đương nhau, thể hiện ở bảng sau: 
Bảng 1: Kết quả khảo sát lúc chưa thực hiện nghiên cứu: Lớp10A1, 10A2 
 Đầu học kỳ 1 - Năm học 2020 - 2021 
Lớp 
Xếp loại hạnh kiểm 
Tốt khá TB Yếu Kém 
Thử nghiệm 
( 10A1) 
26 11 5 0 0 
61,9% 26,2% 11,9% 0% 0% 
Đối chứng 
( 10A2) 
25 11 5 0 0 
60,9% 26,8% 12,3% 0% 0 
Bảng 2: Kết quả khảo sát lúc chưa thực hiện nghiên cứu: Lớp 10C2, 10C4 
 Đầu học kỳ 1 - Năm học 2020 - 2021 
Lớp 
Xếp loại hạnh kiểm 
Tốt khá TB Yếu Kém 
Thử nghiệm 
( 10C2) 
30 9 3 0 0 
71,4% 26,2% 2,4% 0% 0 
Đối chứng 
( 10C4) 
29 10 3 0 0 
69% 28,6% %2,4 0% 0 
 3.3. Kết quả thử nghiệm 
42 
 Bảng 3 : Kết quả khảo sát Lớp 10A1, 10A2 - Cuối học kỳ 1 - Năm học 
2020 - 2021 
Lớp 
Xếp loại hạnh kiểm 
Tốt Khá TB Yếu Kém 
Thử nghiệm 
( 10A1) 
28 13 1 0 0 
66,67% 30,95% 2,38% 0% 0% 
Đối chứng 
(10A2) 
26 12 3 0 0 
63,41% 29,26% 7,33% 0% 0% 
 Bảng 4: Kết quả khảo sát Lớp 10C2, 10C4 - Cuối học kỳ 1 - Năm học 
2020 - 2021 
Lớp 
Xếp loại hạnh kiểm 
Tốt Khá TB Yếu Kém 
Thử nghiệm 
( 10C2) 
35 6 1 0 0 
83,33% 14,29% 2,39% 0% 0% 
Đối chứng 
( 10C4) 
32 8 2 0 0 
76,19% 19,05% 4,76% 0% 0% 
 Từ số liệu bảng dùng quy trình vẽ đồ thị Excel, lập đồ thị tần suất xếp loại 
hạnh kiểm của các phiếu điều tra. 
Biểu đồ 1: Tần suất xếp loại hạnh kiểm của lớp thử nghiệm và đối chứng 
( Lớp 10A1, 10A2) 
43 
Biểu đồ 2: Tần suất xếp loại hạnh kiểm của lớp thử nghiệm và đối chứng 
( Lớp 10C2, 10C4) 
 3.4. Kết luận chung về thử nghiệm 
 - Từ kết quả thay đổi về đạo đức bản thân của học sinh hai cặp lớp đối chứng 
và thử nghiệm. Sự thay đổi của lớp trước và sau thử nghiệm cho phép rút ra kết 
luận: Các biện pháp mà giáo viên chủ nhiệm đã thực hiện có tác động tích cực đến 
việc rèn luyện đạo đức bản thân cho học sinh THPT. 
 - Kết quả thu được từ thử nghiệm đã chứng minh rằng những kinh nghiệm mà 
tác giả đề xuất có khả năng áp dụng cho toàn trường, các trường THPT huyện Đô 
44 
Lương, Nghệ An nói riêng và các trường THPT trong toàn tỉnh nói chung, trong 
việc giáo dục đạo đức cho học sinh của giáo viên chủ nhiệm trong điều kiện thực 
tế hiện nay. 
PHẦN III: KẾT LUẬN 
 1. Kết luận 
 Đề tài nghiên cứu là kết quả của một quá trình suy nghĩ, trăn trở của chúng tôi 
trước tình hình đạo đức của HS hiện nay. Giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ nói 
chung, cho học sinh THPT nói riêng luôn là mối quan tâm hàng đầu của Đảng và 
nhà nước ta. Đạo đức có vai trò rất lớn trong đời sống xã hội của con người, là vấn 
45 
đề thường xuyên được đặt ra và giải quyết nhằm bảo đảm cho mỗi cá nhân và cộng 
đồng tồn tại phát triển. Nếu một cá nhân có trình độ và chuyên môn rất cao nhưng 
không có đạo đức tốt sẽ gây ra nhiều thảm họa cho xã hội. Học sinh là thế hệ trẻ và 
chủ nhân tương lai của đất nước, là nguồn nhân lực cơ bản thúc đẩy sự thành bại 
của mỗi quốc gia. Hơn lúc nào hết, hiện nay việc đẩy mạnh giáo dục đạo đức, giáo 
dục giá trị sống, lý tưởng sống, giáo dục lòng yêu nước cho học sinh là rất quan 
trọng và cấp thiết. Nó góp phần xây dựng thành công con người mới xã hội chủ 
nghĩa để phát triển đất nước trong thời kỳ mới. 
 Làm nghề giáo tôi luôn nhớ rằng: “Thầy giáo dạy người chủ yếu bằng bản 
thân con người mình”, “Nghề dạy học không có phế phẩm”. Vì vậy, hãy thật sự 
yêu nghề, hãy thương yêu học sinh như con em ruột thịt của mình. Phải luôn luôn 
trau dồi năng lực chuyên môn, năng lực ứng xử sư phạm. Mỗi thầy, cô giáo, mỗi 
cán bộ giáo dục hãy luôn là tấm gương sáng, tự học và sáng tạo cho học sinh noi 
theo. 
 Chúng tôi viết sáng kiến kinh nghiệm này nhằm định hướng những biện pháp 
giáo dục có hiệu quả các đối tượng HS chưa ngoan của cấp THPT. Giúp các em 
HS hình thành và phát triển nhân cách con người mới; trở thành con ngoan của gia 
đình, trò giỏi của nhà trường, người có ích cho xã hội trong tương lai. 
 Chúng tôi đã 20 năm làm nghề nhà giáo thì 18 năm là người trực tiếp làm 
công tác chủ nhiệm, chúng tôi đã rút ra được một vài kinh nghiệm cho bản thân 
như đã trình bày, chắc là không thể tránh khỏi những sơ suất, rất mong sự góp ý 
chân thành của quý đồng nghiệp. 
 2. Đề xuất - kiến nghị 
 Giáo viên chủ nhiệm là người trực tiếp chịu trách nhiệm đồng thời là người 
tiên phong trong giáo dục đạo đức học sinh ở lớp. Để thực hiện tốt vai trò, chức 
năng của người giáo viên chủ nhiệm, giáo viên chủ nhiệm rất cần sự hỗ trợ, hợp 
tác. Vậy nên: 
* Đối với ngành giáo dục: 
Cần tổ chức Hội thảo, chuyên đề về công tác chủ nhiệm lớp hoặc phổ biến các 
chuyên đề, sáng kiến kinh nghiệm hay để giáo viên các trường tham khảo, học hỏi 
và linh hoạt trong vận dụng ở trường, ở lớp chủ nhiệm. 
* Với Ban giám hiệu: 
 - Cần tạo điều kiện nhiều hơn nữa trong việc giúp đỡ, hỗ trợ giáo viên chủ 
nhiệm xử lý học sinh chưa ngoan vi phạm nhiều lần, có nhiều cuộc trò chuyện, 
trao đổi riêng với các học sinh chưa ngoan. 
46 
 - Ban giám hiệu cần có chủ trương, nội dung cụ thể hơn trong việc phối kết 
hợp giáo dục đạo đức học sinh giữa Nhà trường - Gia đình - Xã hội. 
 - Cần có những buổi gặp mặt giữa lãnh đạo, GVCN, GVBM và phụ huynh. 
 * Với giáo viên bộ môn và các tổ chức đoàn thể: Tạo cơ hội để các em được 
thể hiện mình, được trở nên tốt hơn trước tập thể. Cần động viên, khích lệ kịp thời 
các học sinh chưa ngoan, đạo đức chưa tốt khi thấy các em có sự chuyển biến tích 
cực. 
 * Với phụ huynh học sinh: Cần quan tâm nhiều hơn nữa đời sống tình cảm, 
hiểu biết rõ về diễn biến phát triển tâm sinh lý của con em. Ngoài ra cần phải kiểm 
tra sát sao việc tự học, tự rèn ở nhà của các em. Luôn báo với giáo viên chủ nhiệm 
những sai sót ở gia đình để cùng giáo viên uốn nắn, giáo dục. 
 Qua đề tài nghiên cứu này, mong quý đồng nghiệp cùng tham khảo, chia sẻ và 
đóng góp ý kiến để tìm ra giải pháp giáo dục đạo đức học sinh hữu hiệu nhất. 
 Xin trân trọng cảm ơn! 
 Đô Lương, ngày 10 tháng 3 năm 2021 
 Nhóm người thực 
47 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Wedsite :  
2. Phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục - Hà Nội 1996 - PTS. Phạm Viết 
Vượng. 
3. Tâm lí học đại cương - Hà Nội 1995 - PGS. Nguyễn Quang Uẩn (chủ biên). 
4. Giáo dục học đại cương II - Hà Nội 1996 - GS. Đặng Vũ Hoạt. 
5. Thực hành về giáo dục học - Hà Nội 1995 - PTS. Nguyễn Đình Chỉnh. 
6. Điều lệ trường trung học - Bộ GD & ĐT. 
7. Thông tư 23/29 v/v hướng dẫn đánh giá, xếp loại học sinh THPT - Bộ GD & 
ĐT. 
8. Luật GD 2019 - Bộ GD & ĐT. 
9. Pháp lệnh cán bộ công chức - Bộ & ĐT. 
10. GS Nguyễn Minh Thuyết, “Người thầy – người bạn lớn”, Báo điện tử Đại biểu 
nhân dân, trang Văn hóa – Giáo dục. 
11. Phạm Thị Hải Anh, Thanh Thủy, “ Giáo dục đạo đức cho học sinh”, “Giáo 
viên chủ nhiệm – Chiếc cầu nối đa chiều”, nguồn Giáo dục và Đào tạo online. 
12. Một số bài viết của đồng nghiệp trên violet. 

File đính kèm:

  • pdfsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_giai_phap_cua_giao_vien_chu_nhi.pdf
Sáng Kiến Liên Quan