Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh lớp 1 còn hạn chế tiếp thu kiến thức, kĩ năng môn toán nâng cao hiệu quả học tập

- Khả năng tính toán, giải toán là phản ánh năng lực vận dụng kiến thức của học sinh. Học sinh hiểu về mặt nội dung kiến thức toán học vận dụng vào làm toán kết hợp với kiến thức Tiếng Việt để giải quyết vấn đề trong toán học.

- Thông qua môn Toán, học sinh được rèn luyện kỹ năng diễn đạt, phân tích, tổng hợp. Thông qua đó góp phần phát triển tư duy cho học sinh.

Đó là nguyên nhân chính mà tôi chọn đề tài nghiên cứu: Một số biện pháp giúp đỡ học sinh còn hạn chế kiến thức, kĩ năng môn Toán lớp 1.

Đối với trẻ giai đoạn lớp 1, môn Toán là môn học vừa dễ lại vừa khó. Dễ là kiến thức không nhiều, học sinh chỉ phải làm các bài tập trong sách giáo khoa dạng phiếu bài tập. Tuy nhiên lại yêu cầu về ngôn ngữ chính xác, cách diễn đạt phải đúng. Trong nhiều bài toán các em chưa học hết vần nhưng đã phải đọc các bài toán chứa các vần mới. Đến dạng toán có lời văn, do tốc độ viết và ngôn ngữ còn hạn chế. Học sinh phải học cách diễn đạt, trình bày vào vở với một tâm lí e ngại. Đối với học sinh còn hạn chế tiếp thu, các em ngại làm, dễ bị nhầm lẫn giữa cộng và trừ,

Vì vậy, tôi lựa chọn sáng kiến này để giúp đỡ học sinh còn hạn chế kiến thức, kĩ năng môn Toán lớp 1, giúp các em yêu thích học Toán hơn.

 

doc18 trang | Chia sẻ: phangia015 | Lượt xem: 1962 | Lượt tải: 1Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh lớp 1 còn hạn chế tiếp thu kiến thức, kĩ năng môn toán nâng cao hiệu quả học tập", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 trong các tiết học có sử dụng đồ dùng dạy học. Vì vậy, tôi thường xuyên tự làm các đồ dùng dạy học gần gũi với các em như bông hoa, hình tròn, hình vuông.
- Đối với các phép tính trong phạm vi 3,4,5; tôi cùng phụ huynh tự làm các đồ dùng học tập để giúp các em yêu thích học Toán hơn. 
- Tôi tự trang bị máy chiếu để ứng dụng công nghệ thông tin vào các tiết học. 
Biện pháp 3: Sử dụng đa dạng các phương pháp dạy học cho HS
- Do là học sinh khả năng nghi nhớ kém, nên việc hiểu và nhớ của các em còn chậm, mau quên. Vì thế qua mỗi tiết học, tôi luôn tìm ra các phương pháp giảng dạy thích hợp, có trọng tâm, bằng phương pháp trực quan sinh động, giảng dạy vấn đáp, chơi trò chơi toán học, sử dụng máy chiếu  phối hợp đang xen nhau tạo hứng thú cho các em. Cụ thể:
1. Tăng cường sử dụng trực quan trong dạy học Toán:
 Khi dạy các bài toán hình thành kiến thức mới, tôi cho học sinh được trực tiếp sử dụng đồ dùng trực quan sẽ dễ lĩnh hội được kiến thức hơn.
 *Ví dụ: Khi dạy bài “Phép cộng trong phạm vi 5”. Để các em hiểu phép tính, giáo viên cho các em là tự làm việc với que tính.
 - Dạy phép tính 4 + 1 = 5, tôi không áp đặt kiến thức hay tự thực hiện các thao tác mà để cho học sinh tự thao tác thêm:
 Cho học sinh đếm và lấy 4 que tính (tức là vừa đếm vừa lấy từng que tính ) : (1, 2, 3, 4). Sau đó tiếp tục cho học sinh đếm và lấy 1 que tính . Rồi hướng dẫn học sinh gộp hai nhóm que tính này thành một nhóm que tính. Đếm số que tính của nhóm này : 1, 2, 3, 4, 5 và viết 5 vào bảng con (công việc này gọi là thao tác gộp, giúp học sinh hiểu khái niệm phép cộng một cách chính xác nhất)
 - Dạy phép tính 1+ 4 = 5, cho học sinh đếm 1 que tính, rồi tiếp tục đếm lấy 4 que tính (không để tách riêng mà gộp luôn vào số đã lấy). Sau đó hướng dẫn học sinh đếm số que tính thu được: 1, 2, 3, 4, 5 và viết 5 (công việc này gọi là thao tác thêm). Về mặt toán học thì thao tác thêm không khác gì với thao tác gộp . Điểm khác ở đây là thao tác gộp hai nhóm được tiến hành cùng một cách với thao tác đếm lấy 5 que tính. 
- Dạy phép tính 5 – 4 = 1 thì tôi cho học sinh thực hiện các công việc sau: Đếm lấy 5 que tính . Từ số 5 que tính này đếm lấy bớt 4 que tính sau đó đếm số que tính còn lại : 1 viết 1.
*Hình ảnh hoạt động:
* Ví dụ : Dạy bài số 6 phần nhận biết thứ tự của số 6:
 + Học sinh dùng que tính hoặc hình tròn đếm xuôi, ngược. Sau đó học sinh đếm buông ( không dùng đồ vật đếm). Từ đó học sinh nhìn vô dãy số sẽ nhận biết được thứ tự của số 6 trong dãy số 1, 2, 3, 4, 5, 6; số 6 đứng liền sau số 5. Được thực hành trên trực quan giúp các em khắc sâu kiến thức hơn.
* Ví dụ: Tiết 81- Bài toán có lời văn
Khi sử dụng đồ dùng dạy học( bằng giáo án điện tử) tôi đã sử dụng hình ảnh động cho mỗi bài:
- Bài 1: Có 1 bạn, có thêm 3 bạn nữa đang đi tới.
- Bài 2: Có 5 con thỏ, thêm 4 con thỏ đang chạy tới.
- Bài 3: Minh hoạ cho đàn gà tôi đã thu âm thanh của gà con.
- Bài 4: Hình ảnh 4 con chim đậu trên cành, có 2 con chim bay đến...
Qua các hình ảnh minh hoạ cho bài học này, tôi thấy bài học rất sinh động, học sinh hào hứng say mê kiến thức mới, nắm bài tốt hơn...
2. Dạy cho học sinh nắm chắc kiến thức từng bài, từng phần trong chương trình toán 1
Các bài dạy trong môn Toán có sự kế thừa, vì thế để không làm ảnh hưởng đến kiến thức của học sinh. Tôi tăng cường giảng dạy, củng cố kiến thức cũ để học sinh dễ dàng áp dụng học các dạng toán tiếp theo.
*Ví dụ : Để học sinh dễ dàng thực hiện và nhớ các phép cộng trong phạm vi 10, tôi dạy cho học sinh nắm chắc về cấu tạo số 10. 
10 gồm 9 và 1; 10 gồm 1 và 9; 10 gồm 2 và 8; 10 gồm 8 và 2; 10 gồm 7 và 3; 10 gồm 3 và 7; 10 gồm 4 và 6; 10 gồm 6 và 4; 10 gồm 5 và 5. Đến phép cộng, trừ trong phạm vi 10, tôi dạy học sinh học thuộc và vận dụng tốt bảng cộng.
 Qua các tiết học hằng ngày, cho học sinh làm thêm các bảng cộng, trừ. Đến dạng toán phép cộng, phép trừ trong phạm vi 100, các em vận dụng nhanh hơn. 
3. Dạy học sinh nắm được bản chất các kiến thức toán học: 
Trong các tiết dạy, tôi thường kết hợp vừa giảng vừa luyện, phân tích chi tiết, cụ thể, giúp học sinh hiểu các khái niệm, không hình thức. 
*Ví dụ :
Khi dạy học sinh làm tính cộng: 8 + 1 = 9. Bằng kinh nghiệm sống của trẻ, các em có thể trả lời ngay được kết quả là 9, song nếu chỉ nghĩ rằng học sinh chỉ học thuộc các phép tính làm đúng kết quả thôi thì chưa đủ mà người giáo viên cần làm cho học sinh hiểu cặn kẽ bản chất, ý nghĩa của phép cộng bằng các hình ảnh trực quan, động tác hoạt động của học sinh để từ đó rút ra “Động tác gộp các nhóm đồ vật vào nhau chính là cơ sở của phép cộng hay nói cách khác đó chính là ý nghĩa của phép cộng.” 
4. Giáo viên lấy các ví dụ trong thực tế, gần gũi với học sinh để giúp học sinh hứng thú học tập
Đối với các phép tính toán, để gây hứng thú với học sinh, tôi thường đưa ra các ví dụ gần gũi với các em. 
Ví dụ: Tổ 1 có mấy bạn nữ?
 Có mấy bạn nam?
 Tổ 1 có tất cả bao nhiêu bạn?
 Con làm phép tính gì?
Thông qua các ví dụ cụ thể, gần gũi, các em hứng thú học Toán hơn.
5. Phát triển tư duy đa chiều cho học sinh
Ngay từ đầu học kỳ I các bài toán được giới thiệu ở mức độ nhìn hình vẽ- viết phép tính. Mục đích cho học sinh hiểu bài toán qua hình vẽ, suy nghĩ chọn phép tính thích hợp. Tôi cho học sinh phát triền ngôn ngữ nói, diễn đạt thông qua tình huống trong tranh. Để học sinh tự khám phá tra kiến thức đa chiều.
*Ví dụ: Có một hình vẽ gồm 5 ô vuông liền khối và 1 ô vuông rời, cho học sinh chọn ghi phép tính và kết quả phù hợp với hình vẽ. 
Bài này chỉ yêu cầu học sinh nhìn tranh để điền phép tính. Nhưng vì muốn học sinh hiểu rõ hơn về bài toán, tôi yêu cầu học sinh thảo luận nhóm 2 nêu được 2 bài toán khác nhau từ một tình huống. 
Đối với học sinh còn hạn chế tiếp thu, tôi cho các em nêu bài toán 1, là bài toán dễ nêu: Có 5 hình vuông, thêm 1 hình vuông mữa. Hỏi có tất cả bao nhiêu hình vuông? 
Với học sinh năng khiếu, tôi yêu cầu các em nêu bài toán 2, khó hơn: Có 1 hình vuông, thêm 5 hình vuông nữa. Hỏi có tất cả bao nhiêu hình vuông?
*Ví dụ 2: Với bài Luyện tập phép trừ trong phạm vi 4. Học sinh nhìn hình nêu bài toán. Tôi cho học sinh nhìn tình huống, nêu 2 bài toán khác nhau.
Học sinh hạn chế tiếp thu: Có 4 con vịt dưới ao, lên bờ 1 con vịt. Hỏi dưới ao còn lại bao nhiêu con vịt?
Học sinh điền phép tính: 4- 1= 3.
Học sinh năng khiếu: Có 4 con vịt dưới ao. Còn lại 3 con vịt. Hỏi có mấy con vịt đã lên bờ?
Học sinh điền phép tính: 4- 3= 1.
*Hình ảnh hoạt động:
6. Tổ chức trò chơi học tập đối với học sinh còn hạn chế tiếp thu là một trong những yêu cầu cần thiết nhằm khắc sâu kiến thức cho các em, giúp các em ham thích học toán.
 Trong các bài từ bài phép cộng, trừ trong phạm vi 3 đến phạm vi 10 môn toán, tôi thường xuyên tổ chức trò chơi: Ai nhanh, ai đúng. 
Ví dụ: Trong bài Phép cộng trong phạm vi 6.
Chuẩn bị: Lấy giấy bìa cắt nhiều hình tròn, 7 hình đầu tiên viết các số từ 0-6, các hình còn lại viết các phép tính: 1+1, 1+2, 1+3, 1+4, 1+5, 2+1, 2+2, 2+3, 2+4, 3+1, 3+2, 3+3, 4+1, 4+2, 5+1, 1+0, 2+0, 3+0, 4+0, 5+0, 6+0, 0+1, 0+2, 0+3, 0+4, 0+5, 0+6.
Cách tiến hành:
- Giáo viên giới thiệu trò chơi: Ai nhanh, ai đúng.
- Giáo viên hướng dẫn trò chơi:
+ Mỗi em lấy ra một hình tròn bất kỳ (từ 0 đến 6), chẳng hạn: 6.
+ Sau khi thầy (cô) hô “bắt đầu”, các em phải nhặt các hình tròn có tổng bằng 6 (1+5, 5+1, 2+4, 4+2, 3+3, 0+6, 6+0), xếp các hình tròn đó quanh số 6 thành một bông hoa.
+ Ai xếp đúng đầy đủ và nhanh nhất sẽ thắng (Giáo viên lưu ý học sinh: Nhớ làm đủ các phép tính, cả với số 0, cả với các phép tính đảo ngược như 4+2 hay 2+4).
- Học sinh còn hạn chế tiếp thu thường hiểu chậm cái mới, quên nhanh cái vừa tiếp thu được, khó nhớ những gì có tính khái quát trừu tượng quan hệ logic. Các kiến thức cũ phải được giáo viên cũng cố lại nhiều lần khi có liên quan đến nội dung bài mới, giúp các em biết được mối liên hệ, biết phân biệt, biết được sự chuyển tiếp giữa các dạng nội dung với nhau. Chẳng hạn phải cho học sinh thấy rõ sự khác biệt của các dạng toán có mối liên quan với nhau
* Ví dụ: Khi dạy “Phép trừ trong phạm vi 5” tôi giúp học sinh học thuộc các công thức cộng trong phạm vi 3, 4, 5 và thấy được mối liên quan giữa toán cộng và trừ, phép trừ là phép ngược lại của phép cộng: 
 1 + 4 = 5 5 – 1 = 4
 4 + 1 = 5 5 – 4 = 1 
 2 + 3 = 5 5 – 2 = 3
 3 + 2 = 5 5 – 3 = 2
- Khi luyện tập nếu học sinh không tự nhận ra kiến thức đã học trong các dạng bài tập khác nhau, tôi giúp học sinh bằng lời gợi ý hướng dẫn để học sinh nhớ lại kiến thức và cách làm, không vội làm thay cho học sinh.
*Ví dụ : Khi dạy các số tròn chục, tôi gợi ý cho học sinh nắm chắc cấu tạo số rồi hướng dẫn học sinh là nét đặc biệt của các số tròn chục là hàng đơn vị luôn bằng 0. Từ nhận biết cơ bản này, học sinh sẽ áp dụng vào việc thực hiện phép cộng, trừ các số tròn chục một cách thuận lợi.
 30 + 50 = 80
 80 - 30 = 50 
Vì hàng đơn vị luôn bằng 0 nên học sinh chỉ cần nhẩm hoặc tính hàng chục thì sẽ ra kết quả của phép tính.
 Trò chơi Bắt lấy và nói được áp dụng trong các dạng bài này. Khi 1 học sinh cầm bóng, đọc 1 phép tính cộng, trừ các số tròn chục bất kì, đồng thời thực hiện ném bóng cho bạn. Học sinh nhận được bóng sẽ nêu kết quả của phép tính. Sau khi nêu kết quả, học sinh sẽ 	tiếp tục lựa chọn phép tính khác và lại tâng bóng đến các học sinh tiếp theo. 
Thông qua các trò chơi, học sinh hứng thú học tập. Tiết học trở nên sôi nổi hơn. Thông qua trò chơi, học sinh được lĩnh hội kiến thức một cách chủ động và sáng tạo.
Hình ảnh hoạt động:
7. Ứng dụng phương pháp Bàn tay nặn bột
Phương pháp bàn tay nặn bột là phương pháp mới trong giảng dạy môn Tự nhiên xã hội, khoa học, Tuy nhiên, qua quá trình giảng dạy, tôi thấy có thể áp dụng vào trong giảng dạy môn Toán. Thông qua phương pháp này, học sinh được tự phán đoán, tự tìm ra cách giải quyết phán đoán và tự kiểm chứng được phán đoán của mình. Mặt khác, các em được làm việc nhóm, được cùng các bạn tìm ra kiến thức nên các em sẽ nhớ rất lâu.
Tôi thực hiện phương pháp này như sau:
Bước 1: Nêu tình huống xuất phát (Bài toán).
Bước 2: Học sinh phán đoán kết quả
Bước 3: Học sinh đề xuất cách làm
Bước 4: Học sinh tiến hành tìm kết quả theo cách làm mình đề xuất
Bước 5: Kết luận và hợp thức hóa kiến thức.
Ví dụ: Trong bài Phép cộng dạng 17-3
Bước 1: Cô có 17 que tính, cô bớt đi 3 que tính. Muốn biết cô có bao nhiêu que tính ta làm thế nào?
Bước 2: Con dự đoán kết quả bằng bao nhiêu?
HS: 12, 13, 14,
Bước 3: Học sinh đề xuất cách làm: Đếm số que tính.
Bước 4: Học sinh thảo luận, thực hành trên que tính, tính nhẩm.
Các nhóm đối chiếu kết quả với phán đoán ban đầu. Cho HS nêu kết quả đúng 17 - 3= 14.
Bước 5: Giáo viên chốt lại kết quả đúng, Chốt lại cách đặt tính.
Đối với học sinh lớp 1, tôi áp dụng phương pháp Bàn tay nặn bột một cách linh động, phù hợp với đặc điểm tâm lí và nhận thức của các em.
Biện pháp 4: Luyện kỹ năng thực hành vừa sức với học sinh còn hạn chế tiếp thu
- Đối với mỗi học sinh, việc luyện tập thực hành là một việc không thể thiếu. Nhất là học sinh còn hạn chế tiếp thu, các em cần đạt được những yêu cầu nhất định.
- Khi giảng dạy, tôi luôn chú ý theo dõi học học sinh, khuyến khích các em học tập tích cực phát biểu ý kiến. Đặt những câu hỏi dễ, cho những bài tập vừa sức. Đối với mục tiêu quan trọng cơ bản của tiết học, tôi thường xuyên gọi các em còn hạn chết tiếp thu thực hành nhiều hơn. Có thể chẻ nhỏ bài tập hoặc cho thêm nhiều bài tập trắc nghiệm với mức độ yêu cầu vừa sức với các em, giúp các em khắc phục tính ngại khó, giúp các em hiểu bài, chỉ rõ những kiến thức quan trọng cần khắc sâu, cần nhớ kĩ. 
Biện pháp 5: Tăng cường đánh giá học sinh theo hướng tích cực
- Tăng cường đánh giá học sinh theo theo Thông tư 22. Kích thích động viên đúng lúc khi các em có tiến bộ hay đạt được một số kết quả. Đồng thời phân tích chỉ cho các em chỗ sai nếu có, phê phán đúng mức thái độ lơ là khi học, tránh nói chạm lòng tự ái học sinh. 
*Ví dụ: Đối với bạn Vũ, là học sinh có biểu hiện tăng động, giảm chú ý, chỉ cần em viết được các số (có thể chưa đúng dòng kẻ), tôi kịp thời khen ngợi, tuyên dương và động viên em cố gắng.
- Thường xuyên liên hệ với phụ huynh của các em còn hạn chế tiếp thu để báo cáo tình hình học tập của các em. Kết hợp phụ huynh động viên, đôn đốc, nhắc nhở giúp các em đạt kết quả tốt hơn.
- Qua thời gian giảng dạy, tôi nhận thấy giáo viên đánh giá học sinh một cách cởi mở, tạo tình cảm thân thiện, gần gũi, tránh sự nặng nề, tạo áp lực cho các em để các em cảm thấy thích học, để dần dần thay đổi về “chất”.
- Đối với việc đánh giá bài làm của học sinh, tôi không chỉ đưa ra lời nhận xét đúng hoặc sai mà cần giải thích rõ tại sao đúng dựa vào những kiến thức nào, sai thì sai ở đâu ?
 Thường xuyên theo dõi kiểm tra sau mỗi tiết học. Sau mỗi tuần học, tôi chuẩn bị 1 bài kiểm tra những kiến thức đã học để nắm sự tiến bộ phát hiện kịp thời những kiến thức các em chưa nắm được để có sự điều chỉnh phù hợp với kế hoạch phụ đạo học sinh.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến
Sau quá trình nghiên cứu tìm tòi và áp dụng các biện pháp. Các em đã thể hiện rõ rệt thái độ yêu thích học môn Toán hơn. Các em nắm được cấu tạo số, so sánh số, tính toán được các phép tính trong phạm vi 10. Học sinh nắm được kiến thức về Điểm. Đoạn thẳng. Vẽ được đoạn thẳng có độ dài cho trước. Bước đầu vận dụng kiến thức đã học để cộng, trừ các số tròn chục. Các em thực hành thành thạo giải toán có lời văn. Đây là kết quả xứng đáng cho quá trình nỗ lực của các em.
Bảng 2. Kết quả đánh giá khả năng tiếp thu và hình thành kĩ năng của học sinh trong môn toán lớp 1
Tổng số học sinh
Tiếp thu kiến thức
Hình thành kĩ năng
Chậm
Bình thường
Tốt
Chậm
Bình thường
Tốt
SL
TL
SL
TL
SL
TL
SL
TL
SL
TL
SL
TL
34
0
0
18
52.9
16
47.1
1
2.9
20
58.8
13
38.2
Bảng 3. Chất lượng bài kiểm tra định kì lần 2 môn Toán năm học 2019 – 2020
Tổng số học sinh
Điểm KTĐK lần 2 - môn Toán
Điểm dưới 5
Điểm 5-6
Điểm 7-8
Điểm 9-10
SL
TL
SL
TL
SL
TL
SL
TL
34
0
0
2
5.9
12
35.3
20
58.8
	Qua 2 bảng trên chúng ta dễ dàng nhận thấy hiệu quả thực sự từ những biện pháp tôi đã áp dụng. Ở bảng 1, không còn học sinh tiếp thu kiến thức chậm và chỉ còn 1 học sinh hình thành kĩ năng chậm (sẽ được khắc phục trong học kì 2). Bên cạnh đó, số học sinh ở các nhóm tiếp thu bình thường đã tăng lên. Đặc biệt nhiều học sinh đã có khả năng tiếp thu kiến thức tốt (47.1%) và có tới 38.2% số học sinh hình thành tốt về kĩ năng làm toán.
	Việc tiếp thu kiến thức cũng như hình thành kĩ năng tốt đã giúp chất lượng môn Toán của lớp tôi được nâng lên rõ rệt. Rất nhiều em tiến bộ. Qua bảng điểm kiểm tra định kì lần 2, chúng ta thấy không còn học sinh bị điểm dưới 5. Có tới hơn 90% học sinh được điểm từ 7, 8 trở lên. Trong đó điếm 9, điểm 10 chiếm đa số (20 em = 58.8%). Tôi cho rằng những biện pháp mà tôi đã áp dụng đã phát huy hiệu quả thực sự, chất lượng môn Toán lớp tôi sẽ rất ổn định và nâng lên trong thời gian tiếp theo. Nó cũng giúp cho các em học sinh có một nền tảng tốt, một sự tự tin lớn trong mỗi giờ học toán.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Là giáo viên, bản thân tôi luôn mong muốn học sinh của mình chăm ngoan, tiếp thu được kiến thức. Các em được vui chơi, học tập, phát triển nhân cách toàn diện. Đối với học sinh còn hạn chế kiến thức, kĩ năng môn Toán và các môn học khác, đồi hỏi người giáo viên luôn phải tâm huyết với học sinh, luôn tìm các phương pháp mới để kích thích sự ham học hỏi của học sinh.
	Qua một quá trình nghiên cứu các biện pháp giúp đỡ học sinh còn hạn chế kiến thức, kĩ năng môn Toán tại lớp 1A, Trường tiểu học Ngư Lộc I, bước đầu tôi đã giúp được các em tiến bộ, yêu thích học Toán hơn. 
- Qua quá trình giảng dạy, thực hiện các giải pháp đã đề ra, tôi đã thu được những kết quả ngoài mong đợi. Qua đó tôi cũng rút ra được những kinh nghiệm cho bản thân.
Để đạt được mục đích giáo dục, giáo viên phải biết chọn điểm xuất phát thích hợp với đặc điểm riêng của từng học sinh. Giáo viên chủ nhiệm lớp phải nắm vững đặc điểm tâm sinh lý của học sinh, phải yêu học sinh như chính con mình, biết rõ mặt mạnh, mặt yếu của học sinh để bồi dưỡng, luyện tập.
Giáo viên phải xây dựng được đội ngũ cán bộ lớp năng động, sáng tạo. Cùng giáo viên giúp đỡ các bạn còn hạn chế tiếp thu. Thực hiện việc thi đua học tập giữa cá nhân, đôi bạn cùng tiến bộ và tổng kết thi đua công bằng và duy trì xuyên suốt năm học.
Trong từng tiết dạy giáo viên phải xác định khối lượng kiến thức cần truyền thụ cho học sinh thông qua mục đích, yêu cầu của bài dạy. Khi giảng dạy cần lựa chọn nhiều phương pháp phù hợp, vận dụng việc đổi mới phương pháp trong giảng dạy đó là lấy học sinh làm trung tâm, phải khơi gợi cho học sinh tính chủ động, ham thích học Toán. 
Việc chuẩn bị đồ dùng dạy học cũng được coi trọng hàng đầu và nên thường xuyên sử dụng thiết bị dạy học. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy Toán cũng như các môn học khác để kích thích sự ham học đối với học sinh.
Giáo viên cần dẫn dắt học sinh học tập một cách nhẹ nhàng, dí dỏm, tạo cho các em sự tin cậy, yêu mến cô giáo, tinh thần vui vẻ, hồn nhiên để học tập. Để học sinh tự trải nghiệm tìm ra kết quả.
Tuy nhiên đều quan trọng hơn cả vẫn là lòng yêu trẻ, sự kiên trì, nhẫn nại và ý thức trách nhiệm của một người thầy giáo, cô giáo trực tiếp gần gũi các em hàng ngày. Chúng ta luôn ý thức trách nhiệm của mình dạy học sinh phải tiến bộ, sau 1 năm học các em phải đạt được mức chuẩn đến trên chuẩn. Muốn đạt được mục đích này người giáo viên lập kế hoạch cho mình ngay từ đầu, quyết tâm giữ vững tinh thần tránh nhiệm của mình với học sinh. Hãy cùng học, cùng đọc với các bạn nhỏ này ở mọi lúc mọi nơi, mọi môn học, không nên hời hợt, cho qua khi các em đọc sai lỗi, với học sinh lớp 1 cần tập cho các em thói quen tốt: đọc đúng, nhìn kỹ, cố gắng, nhẫn nại, chịu khó vv để tập cho các em nề nếp tốt trong học tập ở hôm nay và mai sau.
Tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu để tìm ra biện pháp tối ưu nhất giúp đỡ các em còn hạn chế tiếp thu môn Toán cũng như các môn học khác một cách dễ dàng hơn và hiệu quả cao nhất.
3.2. Kiến nghị 
- Đối với Ngành: Cần có những bác sĩ tâm lí, bác sĩ chuyên khoa để đánh giá riêng từng học sinh đầu vào lớp 1 để xác định sức khỏe cũng như khả năng học tập của học sinh. Không để tình trạng học sinh có các biểu hiện khuyết tật như tăng động giảm chú ý, tự kỉ,...nhưng không có giấy chứng nhận của gia đình, đè nặng chất lượng lên giáo viên.
- Đối với nhà trường: Cần bổ sung thêm nhiều tranh ảnh minh họa cho môn Toán để giúp giáo viên có phương tiện dạy học tốt hơn.
- Đối với giáo viên: Chúng ta cần phải thực sự quan tâm yêu thương, gần gũi
và tạo không khí vui tươi, phấn khởi trong các buổi học để giúp các em thích đi học, và yêu thích môn học. Giáo viên phải dày công nghiên cứu tài liệu và theo dõi HS qua nhiều năm, nắm bắt được điểm yếu của học sinh để tập trung khắc phục. Có như vậy việc giảng dạy và giáo dục mới thành công như mong muốn.
Trên đây là một vài kinh nghiệm nhỏ mà bản thân tôi đúc rút được qua quá trình giảng dạy. Tuy nhiên do thời gian và năng lực có hạn chắc hẳn sẽ có những thiếu sót. Rất mong sự đóng góp ý kiến của bạn bè đồng nghiệp, Ban giám hiệu nhà trường và của các cấp quản lý để sáng kiến kinh nghiệm của tôi được hoàn thiện hơn và có hiệu quả thiết thực hơn trong công tác giảng dạy. 
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Xác nhận của thủ trưởng đơn vị
Hậu Lộc, ngày 4 tháng 3 năm 2020
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung của người khác.
Người thực hiện
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa Toán 1 - Đỗ Đình Hoan- NXB Giáo dục – XB 2010.
2. Sách giáo viên Toán 1- Đỗ Đình Hoan, Nguyễn Áng- NXB Giáo dục- XB 2010.
3. Phương pháp dạy học Toán ở Tiểu học - Tạ Thanh Hiếu- ĐHSP Phạm Văn Đồng- XB 2015.
4. Tâm lí học - Phạm Minh Hạc (Chủ biên)- NXB Giáo dục, Hà Nội- XB 1991.
5. Tâm lí học lứa tuổi và tâm lí học sư phạm - Lý Minh Tiên, Nguyễn Thị Tứ (Chủ biên) NXB Đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh- XB 2012.
6. TH3: Đặc điểm tâm lý của học sinh yếu kém, học sinh cá biệt, học sinh giỏi và năng khiếu – Tài liệu BDTX bậc Tiểu học.

File đính kèm:

  • docSKKN mon Toan lop 1_12775621.doc
Sáng Kiến Liên Quan