Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh giảm bớt lỗi chính tả ở Lớp 3

- Trong Tiếng Việt phân môn Chính tả là một trong những phân môn có tầm quan trọng đặc biệt ở Tiểu học, nhất là các lớp đầu cấp. Cùng với phân môn Tập đọc, Tập viết, Luyện từ và câu và Tập làm văn phân môn Chính tả cung cấp cho học sinh bộ chữ La Tinh và những yêu cầu về kĩ năng để sử dụng bộ chữ này.Phân môn Chính tả còn giúp cho học sinh rèn luyện chữ viết, mở rộng được vốn từ, bồi dưỡng quy tắc ngữ pháp, đồng thời rèn cho học sinh đức tính tốt đẹp. Qua bài chính tả mà học sinh có những nhận thức đúng đắn về con người và xã hội. Trên cơ sở đó mà các em tin yêu vào cuộc sống và phấn đấu cho học tập của mình.

 - Chữ viết là hệ thống những ký hiệu bằng đường nét đặt ra để ghi tiếng nói và có những quy tắc, quy định riêng. Muốn viết đúng chính tả Tiếng Việt, ta phải tuân theo những quy định, quy tắc đã được xác lập.

 - Trong thực tế, học sinh mắc lỗi chính tả rất nhiều. Có những học sinh viết sai hơn 10 lỗi ở một bài chính tả khoảng 30 chữ. Khi chấm bài Tập làm văn, thật khó để hiểu được các em muốn diễn đạt điều gì vì bài viết mắc quá nhiều lỗi chính tả. Điều này ảnh hưởng tới kết quả học tập của các em ở môn Tiếng Việt cũng như các môn học khác, hạn chế khả năng giao tiếp, làm các em mất tự tin, trở nên rụt rè, nhút nhát.

 

doc15 trang | Chia sẻ: sangkien | Lượt xem: 20440 | Lượt tải: 1Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh giảm bớt lỗi chính tả ở Lớp 3", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
	- Trong Tiếng Việt phân môn Chính tả là một trong những phân môn có tầm quan trọng đặc biệt ở Tiểu học, nhất là các lớp đầu cấp. Cùng với phân môn Tập đọc, Tập viết, Luyện từ và câu và Tập làm văn phân môn Chính tả cung cấp cho học sinh bộ chữ La Tinh và những yêu cầu về kĩ năng để sử dụng bộ chữ này.Phân môn Chính tả còn giúp cho học sinh rèn luyện chữ viết, mở rộng được vốn từ, bồi dưỡng quy tắc ngữ pháp, đồng thời rèn cho học sinh đức tính tốt đẹp. Qua bài chính tả mà học sinh có những nhận thức đúng đắn về con người và xã hội. Trên cơ sở đó mà các em tin yêu vào cuộc sống và phấn đấu cho học tập của mình.
	- Chữ viết là hệ thống những ký hiệu bằng đường nét đặt ra để ghi tiếng nói và có những quy tắc, quy định riêng. Muốn viết đúng chính tả Tiếng Việt, ta phải tuân theo những quy định, quy tắc đã được xác lập.
	- Trong thực tế, học sinh mắc lỗi chính tả rất nhiều. Có những học sinh viết sai hơn 10 lỗi ở một bài chính tả khoảng 30 chữ. Khi chấm bài Tập làm văn, thật khó để hiểu được các em muốn diễn đạt điều gì vì bài viết mắc quá nhiều lỗi chính tả. Điều này ảnh hưởng tới kết quả học tập của các em ở môn Tiếng Việt cũng như các môn học khác, hạn chế khả năng giao tiếp, làm các em mất tự tin, trở nên rụt rè, nhút nhát.
	- Vì lý do trên, tôi đã thống kê, phân loại lỗi, tìm hiểu nguyên nhân và đưa ra một số biện pháp khắc phục để giúp học sinh giảm bớt lỗi chính tả, giúp các em mạnh dạn, tự tin hơn khi giao tiếp, nhằm mục tiêu đào tạo những chủ nhân tương lai năng động, sáng tạo phù hợp với xu thế phát triển hiện nay. Vì vậy tôi quyết dịnh chọn Sáng kiến kinh nghiệm mang tên: 
" Một số biện pháp giúp học sinh giảm bớt lỗi chính tả ở lớp 3"
II. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
	- Học sinh lớp 3A trường Tiểu học Hiền Chung
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
	I.CỞ SỞ LÝ LUẬN
Bản thân tôi đã được phân công phụ trách các lớp 2,3 nhiều năm. Trường tôi công tác là trường tiểu học Hiền Chung, với đặc thù của nhà trường là gần 100% học sinh là người dân tộc Thái. Việc tiếp xúc và trao đổi bằng tiếng phổ thông của các em là rất hạn chế, chỉ khi đến lớp đi học các em mới bắt đầu làm quen và học tiếng phổ thông.Cho nên để đạt được trình độ, yêu cầu của phân môn chính tả ở lớp 3 là rất khó.
Chương trình chính tả của lớp 3 gồm 2 tiết / tuần. Nhiệm vụ là rèn luyện kĩ năng viết đúng chính tả, đúng qui tắc những âm vần dễ lẫn. Gồm các bài chính tả ( hình thức) như sau:
1.Chính tả đoạn - bài gồm: Tập chép; Nghe- viết; Nhớ - viết.
2.Chính tả âm - vần: Đây là hình thức chính tả nhằm rèn cho học sinh các qui tắc chính tả đối với những âm, vần và thanh dễ lẫn hoặc do ảnh hưởng của phương ngữ.Ngoài ra còn có kết hợp chính tả với rèn luyện cách phát âm. Củng cố nghĩa của từ,trau dồi ngữ pháp.
Khi dạy học một bài chính tả phải đảm bảo được những nguyên tắc sau:
1.Nguyên tắc giáo dục toàn diện: Nguyên tắc này yêu cầu ngoài việc cung cấp các qui tắc chính tả, rèn luyện kĩ năng chính tả còn chú ý kết hợp rèn luyện các phương diện khác như: Bồi dưỡng kiến thức về Tiếng việt, giáo dục kết hợp giáo dục thể chất, giáo dục thẩm mỹ, giáo dục tư tưởng tình cảm.
2. Kết hợp giữa dạy học chính tả với dạy học chính âm: Chính âm là tiêu chuẩn hóa tiếng nói của một ngôn ngữ và phổ biến tiếng nói ấy trong phạm vi toàn dân.
3. Kết hợp chính tả có ý thức và chính tả không có ý thức: Chính tả có ý thức là chính tả mà qua đó học sinh nắm được qui tắc một cách đầy đủ. Trên cơ sở đó mà học sinh viết đúng chính tả. Chính tả không có ý thức là loại chính tả mà học sinh được rèn luyện để nhớ qui tắc chính tả thường xuyên để nhớ quy tắc thuộc những trường hợp " Bất thành quy tắc".
4. Chọn bài chính tả theo khu vực.
II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ .
Với thực tế chất lượng của học sinh tại trường tôi công tác thì để đạt được những yêu cầu và những nguyên tắc trên quả là một việc rất khó khăn. Trong thời gian nghiên cứu và thực hiện bản thân tôi đã thống kê được một số lỗi mà học sinh thường mắc phải như sau: 
1. Về âm đầu: 
- Học sinh viết lẫn lộn một số chữ cái ghi các âm đầu sau đây:
+ l/n: đi nàm, no nắng , nụt nội,
+ c/k: Céo cờ, cĩ thuật, ciêu căng,
+ g/gh: Con gẹ , gê sợ, gi nhớ,
+ ng/ngh: Ngỉ ngơi, nge nhạc,ngệ sĩ,
+ ch/tr: Cây che, chiến chanh,chồng chọt,
+ s/x: sáng xuốt, xa mạc, chăm xóc,
+ b/v: bảo bệ, bào lớp, bắng bẻ,
- Trong các lỗi này, lỗi về ch/tr, s/x, l/n, b/v đối với lớp tôi chủ nhiệm là phổ biến hơn cả.
	2. Về âm chính: Các em không phân biệt được yê với iê; khi kết hợp a với i và a với y; a và â không phân biệt được lỗi mắc phải rất nhiều.
Ví dụ: chuyện thành chiện; ay viết thành ai; ây viết thành ay,
	3. Về âm cuối: 
- Học sinh thường viết lẫn lộn chữ ghi âm cuối trong các vần sau đây:
+ an/ang: cây bàn, bàng bạc,
+ at/ac: lang bạc, lừa gạc, rẻ mạc,
+ ăt/ăc: giặc giũ, mặt quần áo
+ ân/âng: hụt hẫn, nhà tần
+ ât/âc: nổi bậc, nhất lên
+ ên/ênh: bấp bên, nhẹ tên, ghập ghền, khấp khển
+êt/êch: trắng bệt, lết thết,
	4. Về thanh điệu:
Tiếng Việt có 6 thanh điệu (ngang, huyền,ngã, hỏi, sắc, nặng) thì nhiều học sinh không phân biệt được 3 thanh hỏi, huyền, nặng. Tuy chỉ có 3 thanh nhưng số lượng tiếng mang 3 thanh này không ít và rất phổ biến - kể cả những người có trình độ văn hoá cao.
Ví dụ: Sừa xe đạp, hướng dấn, giứ gìn, dố dành, lấn lộn, lẩn lộn,
Ngoài những lỗi trên khi viết chính tả các em còn dặt dấu không đúng vị trí.
* Một số các nguyên nhân mà học sinh thường mắc lỗi 
1. Về âm đầu:
	Các em mắc lỗi về âm đầu chủ yếu là do các em chưa nắm vững được các quy tắc chính tả, quy tăc về âm và chữ ghi âm, Nói rộng ra trong phương ngữ Bắc và Nam có sự lẫn lộn giữa các chữ ghi âm đầu ch/tr, s/x. d/gi. Mặt khác, người Miền Nam còn lẫn lộn v và d. Ngoài ra, trong quy ước về chữ quốc ngữ, một âm ghi bằng 2 hoặc 3 dạng (ví dụ: /k/ ghi bằng c / k /qu ) dĩ nhiên là có những quy định riêng cho mỗi dạng, nhưng đối với học sinh tiểu học (nhất là học sinh yếu) thì rất dễ lẫn lộn.
	2. Về âm chính:
Có 2 nguyên nhân gây ra sự lẫn lộn về âm chính trong các vần này:
- Nguyên nhân thứ nhất là do sự phức tạp của chữ quốc ngữ: Nguyên âm /ă/ lại được ghi bằng chữ a trong các vần ay, au, các nguyên âm đôi / iê, ươ, uô/ lại được ghi bằng các dạng iê,yê, ia, ya; ươ, ưa; uô, ua (bia - khuya, biên - tuyến, lửa - lương, mua - muôn); âm đệm lại được ghi bằng 2 con chữ u và o (ví dụ: huệ, hoa).
- Nguyên nhân thứ hai là do cách phát âm lẫn lộn trong phương ngữ thực tế tại mỗi địa phương.
3. Về âm cuối:
Lỗi về âm cuối mắc không nhiều chủ yếu là đối với các em đọc chưa thành thạo.Có những em phát âm hoàn toàn không phân biệt các vần có âm cuối n/ng/nh và t/c/ch. Mà số từ mang các vần này không nhỏ. Mặt khác hai bán âm cuối i,u lại được ghi bằng 4 con chữ i/y (trong: lai/lây), u/o (trong: sau/sao) do đó lỗi về âm cuối là lỗi khó khắc phục đối với một số ít các em.
	4. Về thanh điệu:
	Tại địa phương nơi tôi công tác giảng dạy, học sinh nói tiếng mẹ đẻ là tiếng dân tộc Thái mà trong tiếng Thái khi nói không có thanh ngã. Vì vậy khi các em đến trường đi học tiếng phổ thông những tiếng có thanh ngã các em đều nhầm sang thanh sắc kể cả khi đọc và viết. Lỗi về các thanh khác cũng có nguyên nhân tương tự là do phương ngữ các em viết theo cách nói của mình.
Còn theo các nhà ngữ âm học, người Việt từ Nghệ An trở vào không phân biệt được 2 thanh hỏi, ngã. Hay nói đúng hơn trong phương ngữ Trung và Nam không có thanh ngã. Mặt khác, số lượng tiếng mang 2 thanh này khá lớn. Do đó lỗi về dấu câu rất phổ biến. Một số học sinh miền Bắc thường hay lẫn lộn 2 thanh sắc, ngã với nhau.
5. Quy tắc viết hoa danh từ riêng:
Học sinh thường hay mắc lỗi này khi viết tên riêng chỉ người và tên riêng nước ngoài, học sinh lớp tôi chủ nhiệm có khoảng 1/4 hay mắc lỗi này, nhất là những học sinh yếu nếu không được giáo viên nhắc nhở khi đang viết chính tả.
* Thực trạng trước khi thực nghiệm:
Theo kết quả khảo sát chất lượng đầu năm học (2011 - 2012), kết quả điểm viết trong môn Tiếng Việt như sau:
Tổng số HS
Điểm
9-10
Điểm
 7-8
Điểm
 5-6
Điểm dưới 5
22
SL
TL%
SL%
TL%
SL
TL%
SL
TL%
0
0
2
9,0%
5
22,8%
15
68%
III. MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH KHẮC PHỤC LỖI
1. Biện pháp thứ nhất là: Luyện phát âm:
- Để học sinh viết đúng chính tả, giáo viên phải chú ý luyện phát âm cho học sinh để phân biệt các thanh, các âm đầu, âm chính, âm cuối vì chữ quốc ngữ là chữ ghi âm - âm thế nào, chữ ghi lại thế ấy.
- Việc rèn phát âm không chỉ được thực hiện trong tiết Tập đọc mà được thực hiện thường xuyên, liên tục và lâu dài trong tất cả các tiết học như Chính tả, Luyện từ và câu, Tập làm văn
- Với những học sinh có vấn đề về mặt phát âm ( nói ngọng, nói lắp) giáo viên lưu ý học sinh chú ý nghe cô phát âm để viết cho đúng. Vì vậy, giáo viên phải cố gắng phát âm rõ ràng, tốc độ vừa phải mới có thể giúp học sinh viết đúng được.
- Giáo viên phải nắm vững thực tế phương ngữ tại địa phương để giúp học sinh nói chuẩn tiếng phổ thông từ đó viết đúng được chính tả.
2. Biện pháp thứ hai là: Phân tích, so sánh:
- Với những tiếng khó, giáo viên áp dụng biện pháp phân tích cấu tạo tiếng, so sánh với những tiếng dễ lẫn lộn, nhấn mạnh những điểm khác nhau để học sinh ghi nhớ.
Ví dụ: Khi viết tiếng “bệch ” học sinh dễ lẫn lộn với tiếng “bệt ”, giáo viên yêu cầu học sinh phân tích cấu tạo hai tiếng này:
- Bệch =B + êch + thanh nặng
- Bệt = B + êt + thanh nặng.
So sánh để thấy sự khác nhau: Tiếng “bêch” có âm cuối là “ch”, tiếng “bệt” có âm cuối là “t”. Học sinh ghi nhớ điều này, khi viết, các em sẽ không viết sai.
3 .Biện pháp thứ ba là: Giải nghĩa từ
- Biện pháp thứ ba để khắc phục lỗi chính tả cho học sinh là giải nghĩa từ. Việc giải nghĩa từ thường được thực hiện trong tiết Luyện từ và câu, Tập đọc và Tập làm văn nhưng nó cũng là việc làm rất cần thiết trong tiết Chính tả, khi mà học sinh không thể phân biệt từ khó dựa vào phát âm hay phân tích cấu tạo tiếng.
- Có nhiều cách để giải nghĩa từ cho học sinh: Giáo viên có thể cho học sinh đọc chú giải, đặt câu (nếu học sinh đặt câu đúng tức là học sinh đã hiểu nghĩa từ), tìm từ đồng nghĩa, trái nghĩa, miêu tả đặc điểm hoặc sử dụng vật thật, mô hình, tranh ảnh,
Ví dụ: Phân biệt chiêng và chiên
+ Giải nghĩa từ chiêng: Giáo viên có thể cho học sinh quan sát tranh ảnh cái chiêng hoặc miêu tả đặc điểm (chiêng là nhạc cụ bằng đồng, hình tròn, đánh bằng dùi, âm thanh vang dội).
+ Giải nghĩa từ chiên: Giáo viên có thể cho học sinh đặt câu với từ chiên hoặc giải thích bằng định nghĩa (chiên là làm chín thức ăn bằng cách cho thức ăn vào chảo dầu, mỡ, đun trực tiếp trên bếp lửa).
- Với những từ nhiều nghĩa, giáo viên phải đặt từ đó trong văn cảnh cụ thể để giải nghĩa từ.
4. Biện pháp thứ tư là: Ghi nhớ mẹo luật chính tả:
- Mẹo luật chính tả là các hiện tượng chính tả mang tính quy luật chi phối hàng loạt từ, giúp giáo viên khắc phục lỗi chính tả cho học sinh một cách rất hữu hiệu. Ngay từ lớp 1, các em đã được làm quen với luật chính tả đơn giản như: các âm đầu k,gh,ngh chỉ kết hợp với các nguyên âm i, e, ê, iê, ie. Ngoài ra, giáo viên có thể cung cấp thêm cho học sinh một số mẹo luật khác như:
+ Để phân biệt âm đầu tr/ch: Đa số các từ chỉ đồ vật trong nhà và tên con vật đều bắt đầu bằng ch:
 Ví dụ: chăn, chiếu, chảo, chổi, chai, chày, chén, chum, chạn, chõ, chĩnh, chuông, chiêng, choé, chồn, chí, chuột, chó, chuồn chuồn, châu chấu, chào mào, chiền chiện, chẫu chàng, chèo bẻo, chìa vôi,...
+ Để phân biệt âm đầu s/x: Đa số các từ chỉ tên cây và tên con vật đều bắt đầu bằng s 
 Ví dụ: Sả, si, sồi, sứ, sung, sắn, sim, sao, su su, sầu đâu, sa nhân, sơn trà, sặt, sậy, sấu, sến, săng lẻ, sầu riêng, so đũa sam, sán, sáo, sâu, sên, sếu, sò, sóc, sói, sứa, sáo sậu, săn sắt, sư tử, sơn dương, san hô
+ Luật bổng - trầm: Trong các từ láy điệp âm đầu, thanh (hay dấu) của 2 yếu tố ở cùng một hệ bổng (ngang/sắc/hỏi) hoặc trầm (huyền/ngã/nặng). Để nhớ được 2 nhóm này, giáo viên chỉ cần dạy cho học sinh thuộc 2 câu thơ:
Em Huyền mang nặng, ngã đau
Anh Ngang sắc thuốc, hỏi đau chỗ nào
Nghĩa là đa số các từ láy âm đầu, nếu yếu tố đứng trước mang thanh huyền, nặng, ngã thì yếu tố đứng sau sẽ mang thanh ngã, nếu yếu tố đứng trước mang thanh ngang, sắc, hỏi thì yếu tố đứng sau sẽ mang thanh hỏi (hoặc ngược lại).
Ví dụ:	* Bổng
Ngang + hỏi: Nho nhỏ, vẩn vơ, mê mải, 
Sắc + hỏi: Mải miết, chải chuốt, trút bỏ,
Hỏi + hỏi: Đủng đỉnh, hổn hển, thủ thỉ, rủ rỉ
* Trầm:
Huyền + ngã: Sững sờ, thẫn thờ, lững lờ, vồn vã,
Nặng + ngã: Nhẹ nhõm, đẹp đẽ, mạnh mẽ, lạnh lẽo,
Ngã + ngã: Rỗi rãi, nghễnh ngãng, nhõng nhẽo
+ Để phân biệt các vần dễ lẫn lộn: 	
	Một số từ có vần ênh chỉ trạng thái bấp bênh, không vững chắc: Gập ghềnh, khấp khểnh, chông chênh, lênh đênh, bập bềnh, chếnh choáng, chệnh choạng, lênh khênh, bấp bênh, công kênh
	Hầu hết các từ tượng thanh có tận cùng là ng hoặc nh: oang oang, đùng đoàng, loảng xoảng, đoàng đoàng, sang sảng, rổn rảng, ùng oàng, quang quác, ăng ẳng, ằng ặc, oăng oẳng, răng rắc, sằng sặc, pằng pằng, eng éc, beng beng, chập cheng, leng keng, reng reng, phèng phèng, lẻng kẻng, lẻng xẻng, ùng ùng, đùng đùng, thùng thùng, bình bịch, thình thịch, thình thình, rập rình, xập xình, huỳnh huỵch
Vần uyu chỉ xuất hiện trong các từ: khuỷu tay, khúc khuỷu, ngã khuỵu, khuỵu chân; vần oeo chỉ xuất hiện trong các từ ngoằn ngoèo, khoèo chân, vần ooc chỉ xuất hiện ở từ quần xooc, Vần oong chỉ xuất hiện trong từ xoong nồi, cái xoong.
5 . Biện pháp thứ năm là: Làm các bài tập chính tả:
Ở chương trình lớp 3 có rất nhiều dạng bài tập.Ngoài các bài tập chính tả trong chương trình giáo viên có thể đưa ra các dạng bài tập chính tả khác nhau để giúp học sinh tập vận dụng các kiến thức đã học, làm quen với việc sử dụng từ trong văn cảnh cụ thể. Sau mỗi bài tập, giáo viên giúp học sinh rút ra các quy tắc chính tả để các em ghi nhớ.
Dạng 1: Bài tập điền khuyết:
* Điền vào chỗ trống:
l/n: lành. ặn, naoúng,anh lảnh
	s/x: chimẻ, sanẻ, ẻ gỗ. uất khẩu, năng.uất.
	ươn / ương: bay l..., b. chải, bốn ph.. , chán ch
	iêt/ iêc: đi biền b....., thấy tiêng t/.., xanh biêng b..
* Điền tiếng láy thích hợp vào chỗ trống:
	 Hắn bỡ.. trước cuộc sống mới lạ.
	Buổi trưa hè, trời nắng chói .
	Dây leo chằng, chắn cả lối đi.
	Tiếng gà kêu quang 
Dạng 2: Bài tập tìm từ:
Học sinh tìm từ ngữ chứa âm, vần dễ lẫn qua gợi ý nghĩa của từ, qua gợi ý từ đồng âm, từ trái nghĩa.
* Tìm các từ chứa tiếng bắt đầu bằng ươt hoặc ươc có nghĩa như sau:
	Dụng cụ để đo, vẽ, kẻ:  
	Thi không đỗ: ..
	Người chuyên nghiên cứu, bào chế thuốc chữa bệnh: 
* Tìm các từ chỉ hoạt động:
	Chứa tiếng bắt đầu bằng r: .
	Chứa tiếng bắt đầu bằng d: 
	Chứa tiếng bắt đầu bằng gi: 
	Chứa tiếng có vần ươt: .
	Chứa tiếng có vần ươc: .............................
* Tìm từ ngữ có thanh hỏi hoặc thanh ngã có ý nghĩa như sau:
	 	 Bộ phận ở trên mặt dùng để ngửi:
	Cây trồng để làm đẹp:..
	Trái nghĩa với đóng:
	Khung gỗ để dệt vải: 
Dạng 3: Bài tập trắc nghiệm:
* Khoanh tròn vào chữ cai trước những chữ viết đúng chính tả:
	a. Hướng dấn	b. Hướng dẫn
	c. Giải lụa	d. Dải lụa
	e. Oan uổng	f. Oan uổn
Dạng 4: Điền chữ Đ vào ô trống trước những chữ viết đúng chính tả và chữ S vào ô trống trước những chữ viết sai chính tả:
Rau muốn	Rau muống
Chải chuốc	Chải chuốt
Giặc quần áo	Giặt quần áo
Dạng 5: Nối các tiếng ở cột A với các tiếng ở cột B để tạo thành những từ viết đúng chính tả:
 A	B
	bênh	trái
	bên	vực
	bện	tật
	bệnh	tóc
Dạng 6: Bài tập chọn lựa:
* Chọn từ thích hợp trong ngoặc điền vào chỗ trống trong câu sau:
	 - Cháu bé đang uống  (sửa, sữa)	
	- Học sinh ...........mũ chào thầy giáo. (ngả, ngã).
	- Đôi  này đế rất .. (giày, dày)
	- Sau khi . con, chị ấy trông thật  (xinh, sinh)
Dạng 7: Chọn từ thích hợp trong ngoặc điền vào chỗ trống trong câu sau:
	- Học sinh . đèn học bài.. đêm khuya. (trong, chong)
	- Lan thích nghe kể.hơn đọc.. (truyện, chuyện)
	- Trời nhiều .., gió heo lại về. (mây, may)
Dạng 8: Bài tập phát hiện:
* Tìm từ sai chính tả trong câu sau và sửa lại cho đúng:
	- Xuân diệu là một nhà thơ trử tình nổi tiếng. 
	- Cả phòng khéc lẹc mùi thuốc lá.
	- Lá vàng bay liệng trong gió chiều
	- Bức tườn bị nức ngang nức dọc
	Dạng 9:- Bài tập phân biệt
Đặt câu để phân biệt từng cặp từ sau:
	nồi - lồi
	no - lo
	bàn - bàng
	ngả - ngã
Dạng 10: Bài tập giải câu đố
* Em chọn tr hay ch để điền vào chỗ trống rồi giải câu đố sau:
	Mặt.. òn, mặt lại đỏ gay
 	Ai nhìn cũng phải nhíu mày vì sao
	Suốt ngày lơ lửng ên cao
Đêm về đi ngủ, .ui vào nơi đâu?
	(là gì?)
* Em chọn dấu hỏi hay dấu ngã để đặt trên những chữ in đậm rồi giải câu đố sau:
	 	Cánh gì cánh chăng biết bay
Chim hay sà xuống nơi đây kiếm mồi
	Đôi ngàn vạn giọt mồ hôi
Bát cơm trắng deo, đia xôi thơm bùi.
	(là gì?)
IV. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 
Thời gian thực nghiệm sáng kiến này chưa đầy một năm học, nhưng kết quả đạt được của học sinh lớp tôi đã có rất nhiều khả quan.Trong quá trình đứng lớp, tôi đã áp dụng các biện pháp trên và nhận thấy học sinh đã có tiến bộ khá rõ rệt. Bản thân các em cũng ý thức hơn khi viết bài nên bài viết ít mắc lỗi chính tả. Những em trước kia thường sai 9, 10 lỗi thì nay chỉ còn 3, 4 lỗi, những em trước kia sai 5, 6 lỗi thì nay chỉ còn 1, 2 lỗi Tuy rằng đây mới chỉ là kết quả hết sức khiêm tốn và việc “giúp học sinh giảm bớt lỗi chính tả” là một quá trình lâu dài song tôi vẫn cảm thấy rất mừng vì công việc mình làm đã bước đầu có hiệu quả.
* Kết quả sau khi thực nghiệm 
Tổng số hs
Điểm
9-10
Điểm
 7-8
Điểm
 5-6
Điểm dưới 5
22
SL
TL%
SL%
TL%
SL
TL%
SL
TL%
4
18%
8
36%
10
45,1%
0
C. KẾT LUẬN - ĐỀ XUẤT
I. Bài học rút ra từ thực nghiệm sáng kiến.
	- Việc phát hiện lỗi chính tả, thống kê, tìm nguyên nhân mắc lỗi, từ đó đưa ra các biện pháp khắc phục là rất cần thiết, không thể thiếu trong 
quá trình dạy - học Tiếng Việt. Nhưng không phải chỉ đưa ra các biện pháp khắc phục là có thể thực hiện một cách có hiệu quả. Sửa chữa, khắc phục lỗi chính tả là cả một quá trình lâu dài, đòi hỏi người giáo viên phải kiên trì, bền bỉ, không được nóng vội. Bởi vì có những học sinh tiến bộ ngay trong vài tuần nhưng cũng có những học sinh thì sự tiến bộ diễn ra rất chậm, không phải vài tuần, có khi vài tháng, thậm chí cả một học kỳ. Nếu giáo viên không biết chờ đợi, nôn nóng thì chắc chắn sẽ không thành công.
	- Ngay từ khi các em mới bắt đầu “làm quen” với Tiếng Việt, giáo viên nên hướng dẫn các em thật tỉ mỉ về các quy tắc chính tả, quy tắc kết hợp từ, quy tắc ghi âm chữ quốc ngữ tránh trường hợp học sinh vì thiếu hiểu biết dẫn đến sai sót.
	- Trong quá trình giảng dạy, giáo viên luôn quan sát, kiểm tra,  từ đó phát hiện ra những khó khăn, vướng mắc, hoặc những lỗi mà học sinh hay mắc phải để kịp thời sửa chữa, uốn nắn.
	- “Ở đâu có thầy giỏi. ở đó có trò giỏi”. Vì vậy người giáo viên cần phải không ngừng học hỏi, tự tìm hiểu, nghiên cứu để nâng cao trình độ, tay nghề. Có nắm chắc kiến thức, giáo viên mới có thể giúp học sinh chữa lỗi và khắc phục lỗi một cách có hiệu quả.
	II. Một vài đề xuất.
	Đề nghị nhà trường quan tâm, giúp đỡ mua sắm trang thiết bị, đồ dùng học tập đầy đủ và đảm bảo chất lượng để học sinh học tập. 
	Đề nghị nhà trường , Phòng giáo dục duy trì duy trì các cuộc thi chữ viết hàng năm để học sinh được luyện tập và tham gia. 
	Trên đây là một vài sáng kiến mà tôi đúc kết trong năm dạy phân môn chính tả lớp 3. Với kết quả nghiên cứu của mình tôi không có tham vọng sẽ áp dụng phổ biến, tổng thể mà chỉ xin nêu một số kinh nghiệm ít ỏi của cá nhân tôi tích luỹ được trong quá trình giảng dạy, mong muốn được cùng chia sẻ với các “bạn đồng nghiệp”.
	Rất mong được nhận ý kiến đóng góp của Hội đồng khoa học các cấp, Ban giám hiệu cùng các bạn đồng nghiệp.Để chất lượng chữ viết của học sinh ngày càng được nâng cao, đáp ứng yêu cầu của sự phát triển giáo dục nói chung và của nhà trường nói riêng.
	Tôi xin chân thành cảm ơn!
	 Hiền Chung, ngày 16 tháng 04 năm 2012
	 Người viết
 Phạm Thị Cảnh

File đính kèm:

  • docSKKN_TIENG_VIET_LOP3.doc
Sáng Kiến Liên Quan