Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp dạy giải bài toán liên quan đến rút về đơn vị cho học sinh lớp 3

Trong nhà trường tiểu học, mỗi môn học đều góp phần vào việc hình thành và phát triển những cơ sở ban đầu quan trọng của nhân cách con người Việt Nam. Trong đó môn toán giữ vai trò quan trọng, thời gian dành cho việc học toán chiếm tỉ lệ khá cao. Thực tế những năm gần đây, việc dạy học toán trong các nhà trường tiểu học đã có những bước cải tiến về phương pháp, nội dung và hình thức dạy học.

Cùng với các môn học khác như: Tiếng Việt, Đạo đức, TNXH, . Môn toán cũng có một vị trí rất quan trọng cho việc hình thành nhân cách cho học sinh, vì môn toán là một môn học mang tính khoa học, nghiên cứu một số mặt của thế giới hiện thực và cũng qua môn toán mỗi học sinh tiểu học được trang bị một hệ thống kiến thức cơ bản về nhận thức, điều đó rất cần thiết cho đời sống sinh hoạt và lao động. Bên cạnh đó học sinh tiểu học qua việc học toán sẽ phát huy tốt trí tưởng tượng, các kĩ năng, kĩ xảo về tính toán, có tính chính xác cao. Qua môn toán giúp các em cảm thụ tốt kiến thức của các môn học khác. Cũng qua môn toán, trong suốt cấp học, các em cũng tích luỹ được những kinh nghiệm để tiếp tục nhận thức thế giới xung quanh, áp dụng một cách thành thạo, chính xác kiến thức đã được trang bị vào trong thực tiễn cuộc sống, cũng như sự sáng tạo trong hoạt động học tập của các cấp học cao hơn.

 

doc26 trang | Chia sẻ: sangkien | Lượt xem: 10190 | Lượt tải: 4Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp dạy giải bài toán liên quan đến rút về đơn vị cho học sinh lớp 3", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
này biết chưa?
 - Còn cái này thì sao?
Muốn tìm cái chưa biết ta cần dựa vào đâu? Làm như thế nào?
Hướng dẫn học sinh phân tích xuôi rồi tổng hợp ngược lên, từ đó các em nắm
 bài kĩ hơn, tự các em giải được bài toán.
Cần cho học sinh được rèn luyện khả năng diễn đạt bằng lời nói và bằng chữ viết khi phải giải thích các vấn đề liên quan đến phân tích đề toán, tìm cách giải bài toán và nhất là khi diễn tả câu trả lời, trình bày bài giải của bài toán. Có thể lúc đầu học sinh tự thực hiện các hoạt động diễn đạt này còn khó khăn, nhưng đây là "cơ hội" thuận lợi để các em được phát triển tư duy, khả năng giải quyết vấn đề. 
4/ Trình bày lời giải: Dựa vào sơ đồ phân tích, quá trình tìm hiểu bài, các em sẽ dễ dàng viết được bài giải một cách đầy đủ, chính xác. Giáo viên chỉ việc yêu cầu học sinh trình bày đúng, đẹp, cân đối ở vở là được, chú ý câu trả lời ở các bước phải đầy đủ, không viết tắt, chữ và số phải đẹp.
5/ Kiểm tra lời giải và đánh giá cách giải: Qua quá trình quan sát học sinh giải Toán, chúng ta dễ dàng thấy rằng học sinh thường coi bài toán đã giải xong khi tính ra đáp số hay tìm được câu trả lời. Khi giáo viên hỏi: “ Em có tin chắc kết quả là đúng không?” thì nhiều em lúng túng. Vì vậy việc kiểm tra , đánh giá kết quả là không thể thiếu khi giải Toán va phải trở thành thói quen đối với học sinh. Cho nên khi dạy giải Toán, chúng ta cần hướng dẫn các em thông qua các bước:
 - Đọc lại lời giải.
 - Kiểm tra các bước giải xem đã hợp lí yêu cầu của bài chưa, các câu văn diễn đạt trong lời giải đúng chưa.
 - Thử lại các kết quả vừa tính từ bước giải đầu tiên.
 - Thử lại kết quả đáp số xem đã phù hợp với yêu cầu của đề bài chưa.
Đối với học sinh giỏi, giáo viên có thể hướng các em nhìn lại toàn bộ bài giải, tập phân tích cách giải, động viên các em tìm các cách giải khác, tạo điều kiện phát triển tư duy linh hoạt, sáng tạo, suy nghĩ độc lập của học sinh. 
 BIỆN PHÁP 2 : 
 Hướng dẫn học sinh nắm chắc phương pháp giải bài toán liên quan đến rút về đơn vị bằng phép tính chia, nhân (kiểu bài 1)
Để học sinh nắm chắc phương pháp giải kiểu bài toán này, tôi đã tiến hành dạy ngay ở trên lớp theo phương pháp và hình thức sau:
1/ Kiểm tra bài cũ: Để nhắc lại kiến thức cũ và chuẩn bị cho kiến thức mới cần
 truyền đạt, tôi ra đề như sau: “Mỗi can chứa được 5 lít mật ong. Hỏi 7 can như vậy chứa được bao nhiêu lít mật ong?”
Với bài này, học sinh dễ dàng giải được như sau:
Bài giải.
7 can như vậy chứa được số lít mật ong là:
5 x 7 = 35 (l)
 Đáp số: 35 l mật ong.
Sau đó, tôi yêu cầu học sinh nhận dạng toán đã học và giải thích cách làm, đồng thời cho học sinh nhắc lại quy trình của giải một bài toán.
2/ Bài mới:
* Giới thiệu bài: Dựa vào bài toán kiểm tra bài cũ, giáo viên vừa củng cố, vừa giới thiệu bài ngày hôm nay các em được học.
* Hướng dẫn học sinh giải bài toán 1: Có 35 l mật ong chia đều vào 7 can. Hỏi mỗi can có mấy lít mật ong?
 - Giáo viên yêu cầu học sinh đọc đề bài, đọc thành tiếng và đọc thầm.
 - Hướng dẫn học sinh tóm tắt bài toán (sử dụng phương pháp hỏi đáp):
+ Bài toán cho biết gì? (35 lít mật ong đổ đều vào 7 can).
+ Bài toán hỏi gì? (1 can chứa bao nhiêu lít mật ong).
+ Giáo viên yêu cầu học sinh nêu miệng phần tóm tắt để giáo viên ghi bảng:
7 can: 35 l mật ong
1 can: ... l mật ong ?
- Hướng dẫn học sinh phân tích bài toán để tìm phương pháp giải bài toán.
- Giáo viên yêu cầu học sinh làm vào bảng con.
- Giáo viên đưa bài giải đối chiếu.
Bài giải
Số lít mật ong có trong mỗi can là:
35 : 7 = 5 (l)
Đáp số: 5 l mật ong.
- Giáo viên củng cố cách giải: Để tìm 1 can chứa bao nhiêu lít mật ong ta làm phép tính gì? (phép tính chia).
- Giáo viên giới thiệu: Bài toán cho ta biết số lít mật ong có trong 7 can, yêu cầu chúng ta tìm số lít mật ong trong 1 can, để tìm được số lít mật ong trong 1 can, chúng ta thực hiện phép chia. Bước này gọi là rút về đơn vị, tức là tìm giá trị của
 một phần trong các phần. 
 - Giáo viên cho học sinh nêu miệng kết quả một số bài toán đơn giản để áp dụng, củng cố như:
5 bao: 300kg hoặc 3 túi : 15 kg
1 bao: ? kg 1 túi : ? kg
* Hướng dẫn học sinh giải bài toán 2: Có 35 lít mật ong chia đều vào 7 can. Hỏi 2 can như vậy có mấy lít mật ong?
- Giáo viên yêu cầu học sinh đọc kĩ đầu bài (3 lần).
- Yêu cầu học sinh nêu tóm tắt bài toán – Giáo viên ghi bảng (Phương pháp hỏi đáp).
7 can : 35 lít
2 can : ? lít.
- Hướng dẫn học sinh phân tích bài toán: ( Phương pháp hỏi đáp)
+ Muốn tính được số lít mật ong có trong 2 can ta phải biết gì? ( 1 can chứa được bao nhiêu lít mật ong)
+Làm thế nào để tìm được số lít mật ong có trong 1 can? ( Lấy số lít mật ong trong 7 can chia cho 7).
+ Yêu cầu học sinh nhẩm ngay 1 can: ? l.
+ Yêu cầu học sinh nêu cách tính 2 can khi đã biết 1 can.
(Lấy số lít mật ong có trong 1 can nhân với 2).
- Một học sinh nêu lần lượt bài giải. Giáo viên ghi bảng.
Bài giải
Số lít mật ong có trong mỗi can là:
35 : 7 = 5 (l)
Số lít mật ong có trong 2 can là:
5 x 2 = 10 (l)
 Đáp số:10l mật ong.
- Yêu cầu học sinh nêu bước nào là bước rút về đơn vị: Bước tìm số lít mật ong trong 1 can gọi là bước rút về đơn vị.
- Hướng dẫn học sinh củng cố dạng toán – kiểu bài 1:
Các bài toán có liên quan đến rút về đơn vị thường được giải bằng 2 bước:
+Bước 1: Tìm giá trị một đơn vị (giá trị một phần trong các phần bằng nhau) . Thực hiện phép chia.
+ Bước 2: Tìm giá trị của nhiều đơn vị cùng loại (giá trị của nhiều phần bằng
 nhau) . Thực hiện phép nhân.
+ Học sinh nhẩm thuộc, nêu lại các bước.
- Hướng dẫn học sinh làm bài tập áp dụng.
- Giáo viên nêu miệng, ghi tóm tắt lên bảng, học sinh nêu kết quả và giải thích
 cách làm.
3 túi : 45 kg hoặc : 4 thùng : 20 gói.
12 túi : ? kg. 5 thùng : ? gói.
Sau khi học sinh nắm chắc cách giải bài toán ở kiểu bài này, chúng ta cần tiến hành hướng dẫn học sinh luyện tập.
c/Luyện tập:
Khi tiến hành hướng dẫn học sinh luyện tập qua từng bài, giáo viên cần thay đổi hình thức luyện tập.
Bài 1: - Hướng dẫn học sinh thảo luận chung cả lớp, sau đó 1 học sinh tóm tắt và giải bài toán trên bảng, cả lớp làm vào vở.
- Củng cố bước rút về đơn vị.
- Củng cố các bước giải bài toán này.
Bài 2: - Học sinh thảo luận và làm việc theo nhóm đôi.
- Yêu cầu 1 cặp học sinh trình bày bảng – Giáo viên kiểm tra các kết quả của cả lớp.
- Yêu cầu học sinh nêu bước rút về đơn vị.
- Củng cố cách thực hiện 2 bước giải bài toán.
Bài 3: Hướng dẫn học sinh chơi trò chơi ghép hình.
d/ Củng cố dặn dò:
- Học sinh tự nêu các bước, cách thực hiện giải bài toán có liên quan đến rút về đơn vị ( kiểu bài 1)
- Giao thêm bài về nhà dạng tương tự để hôm sau kiểm tra.
- Qua mỗi lần luyện tập xen kẽ, giáo viên đều củng cố cách làm ở kiểu bài 1 là: 
+ Bài giải được thực hiện qua 2 bước:
Bước 1: (Bước rút về đơn vị) Tìm giá trị 1 đơn vị (Giá trị 1 phần). (phép chia).
Bước 2: Tìm nhiều đơn vị (từ 2 đơn vị trở lên - phép nhân).
Nhấn mạnh cốt chính của kiểu bài 1 là tìm giá trị của nhiều đơn vị (nhiều phần).
Khi học sinh đã nắm chắc kiểu bài 1 thì các em dễ dàng giải được kiểu bài 2.
 BIỆN PHÁP 3 : 
 Hướng dẫn học sinh nắm chắc phương pháp giải bài toán liên quan đến rút về đơn vị giải bằng 2 phép tính chia (Kiểu bài 2)
Khi dạy kiểu bài 2 này, tôi cũng dạy các bước tương tự. Song để học sinh dễ nhận dạng, so sánh phương pháp giải 2 kiểu bài, khi kiểm tra bài cũ, tôi đưa đề bài lập lại của kiểu bài 1: “ Có 35 lít mật ong rót đều vào 7 can . Hỏi 2 can đó có bao nhiêu lít mật ong”. Mục đích là vừa kiểm tra, củng cố phương pháp giải ở kiểu bài 1, cũng là để tôi dựa vào đó hướng các em tới phương pháp giải ở kiểu bài 2 (giới thiệu bài).
Bài toán ở kiểu bài 2 có dạng sau: 
Có 35 lít mật ong đựng đều vào 7 can. Nếu có 10 lít mật ong thì đựng đều vào mấy can như thế?
Cách tổ chức, hướng dẫn học sinh cũng như ở kiểu bài 1.
Khi củng cố, học sinh nêu được ở bước 1 là bước rút về đơn vị và các bước thực hiện bài giải chung của kiểu bài 2 này.
+ Bước 1:: Tìm giá trị 1 đơn vị ( giá trị 1 phần). ( đây là bước rút về đơn vị) . ( phép chia).
+ Bước 2: Tìm số phần (số đơn vị) ( phép chia).
Sau mỗi bài tập, chúng ta lại củng cố lại một lần, các em sẽ nắm chắc phương pháp hơn. Đặc biệt khi học xong kiểu bài 2 này, các em dễ nhầm với cách giải ở kiểu bài 1. Cho nên, chúng ta phải hướng dẫn học sinh cách kiểm tra, đánh giá kết quả bài giải ( thử lại theo yêu cầu của bài).
Ví dụ: Các em đặt kết quả tìm được vào phần tóm tắt của bài các em sẽ thấy được cái vô lí khi thực hiện sai phép tính của bài giải :
Từ đó các em nắm chắc phương pháp giải kiểu bài 2 tốt hơn, có kĩ năng , kĩ xảo tốt khi giải Toán.
CÁC 
BƯỚC
KIỂU BÀI 1
( Tìm giá trị của các phần)
KIỂU BÀI 2
( Tìm số phần)
1
-  Tìm giá trị của 1 phần:
( phép chia)
(Đây là bước rút về đơn vị)
-  Tìm giá trị của 1 phần: 
( phép chia)
(Đây cũng là bước rút về đơn vị)
2
-  Tìm giá trị của các phần:
-  Lấy giá trị 1 phần nhân với số phần (phép nhân)
-  Tìm số phần.
  (Phép chia)
 Lấy giá trị các phần chia cho giá trị 1 phần.
BIỆN PHÁP 4 : 
Hướng dẫn học sinh luyện tập, so sánh phương pháp giải 2 kiểu bài
 Để học sinh luyện tập tốt 2 kiểu bài này, tôi đã hướng dẫn các em so sánh các bước giải và đặc điểm của mỗi kiểu bài.
Sau đó, tôi yêu cầu học sinh học thuộc để áp dụng nhận dạng kiểu bài và giải các bài toán đó. Khi luyện tập, tôi tiến hành cho học sinh luyện 2 bài tập song song với nhau, mục đích là để các em vừa làm, vừa nhận dạng, so sánh. Sau mỗi lần luyện tập như vậy, chúng ta lại củng cố kiến thức một lần cho các em, chắc các em không còn nhầm lẫn nữa.
* Lần 1:
Bài toán 1: Có 5 túi gạo chứa được 40 kg gạo. Hỏi 3 túi gạo thì chứa được bao nhiêu ki - lô - gam gạo?
Bài toán 2: Có 40 ki – lô - gam gạo đựng vào 5 túi. Hỏi có 24 kg gạo thì cần bao nhiêu túi như thế để đựng?
* Củng cố cách giải, mối quan hệ giữa các phép tính trong 2 bài toán này. Mặt khác học sinh dễ dàng nhìn nhận ra lỗi sai của mình, nếu như nhầm phép tính ( Bài toán 2 là bài toán ngược của bài toán 1)
* Lần 2:
Bài toán 1: Có 4 cái áo đơm hết 24 cái cúc áo. Hỏi có 1236 cúc áo thì đơm
 được bao nhiêu cái áo như thế?
Bài toán 2: Ba thùng như nhau đựng được 27 lít mật ong. Hỏi 7 thùng như thế
 đựng được bao nhiêu kg mật ong?
*Đổi thứ tự bài để học sinh củng cố được cách nhận dạng 2 kiểu bài và phương pháp giải.
 BIỆN PHÁP 5 : Khích lệ học sinh hứng thú khi học tập 
 Đặc điểm chung của học sinh tiểu học là thích được khen hơn chê, hạn chế chê các em trong học tập, rèn luyện . Tuy nhiên, nếu ta không biết kết hợp tâm lý từng học sinh mà cứ quá khen sẽ không có tác dụng kích thích. Đối với những em chậm tiến bộ, thường rụt rè, tự ti, vì vậy tôi luôn luôn chú ý nhắc nhở, gọi các em trả lời hoặc lên bảng làm bài. Chỉ cần các em có một “tiến bộ nhỏ” là tôi tuyên dương ngay, để từ đó các em sẽ cố gắng tiến bộ và mạnh dạn, tự tin hơn. Đối với những em học khá, giỏi phải có những biểu hiện vượt bậc, có tiến bộ rõ rệt tôi mới khen.Chính sự khen, chê đúng lúc, kịp thời và đúng đối tượng học sinh trong lớp đã có tác dụng
 khích lệ học sinh trong học tâp.
 Ngoài ra, việc áp dụng các trò chơi học tập giữa các tiết học cũng là một yếu
 tố không kém phần quan trọng giúp học sinh có niềm hăng say trong học tập, mong muốn nhanh đến giờ học và tiếp thu kiến thức nhanh hơn, chắc hơn. Vì chúng ta đều biết học sinh tiểu học nói chung, học sinh lớp ba nói riêng có trí thông minh khá nhạy bén, sắc sảo, có óc tưởng tượng phong phú. đó là tiền đề tốt cho việc phát triển tư duy Toán học nhưng các em cũng rất dễ bị phân tán, rối trí nếu bị áp đặt, căng thẳng hay quá tải. Hơn nữa cơ thể của các em còn đang trong thời kì phát triển hay nói cụ thể hơn là các hệ cơ quan còn chưa hoàn thiện vì thế sức dẻo dai của cơ thể còn thấp nên trẻ không thể ngồi lâu trong giờ học cũng như làm một việc gì đó trong một thời gian dài. Vì vậy muốn giờ học có hiệu quả thì đòi hỏi người giáo viên phải đổi mới phương pháp dạy học tức là kiểu dạy học :“ Lấy học sinh làm trung tâm.”, hướng tập trung vào học sinh, trên cơ sở hoạt động của các em. Trong mỗi tiết học, tôi thường dành khoảng 2 – 3 phút để cho các em nghỉ giải lao tại chỗ bằng cách chơi các trò chơi học tập vừa giúp các em thoải mái sau giờ học căng thẳng, vừa giúp các em có phản ứng nhanh nhẹn, ghi nhớ một số nội dung bài đã học.
	Tóm lại: Trong quá trình dạy học người giáo viên không chỉ chú ý đến rèn luyện kĩ năng, truyền đạt kiến thức cho học sinh mà còn phải quan tâm chú ý đến việc: Khuyến khích học sinh tạo hứng thú trong học tập.
Trên đây là phương pháp hướng dẫn các em học sinh lớp 3 giải tốt dạng toán: Bài toán liên quan đến rút về đơn vị, tôi tin rằng nếu chúng ta làm được như vậy
 thì các em nắm được phương pháp giải dạng toán này tốt hơn, chắc chắn hơn, tránh được những sai sót có thể xảy ra. Các em sẽ có được tinh thần phấn khởi, tự tin khi giải Toán.
 III- KẾT QUẢ THỰC HIỆN – SO SÁNH ĐỐI CHỨNG :
 Trong suốt quá trình nghiên cứu, quan sát học sinh giải Toán, tôi thấy các em rất thích giải Toán khi các em đã có đủ vốn kiến thức, phương pháp giải Toán. Các em giải Toán đúng, chính xác hơn khi các em được thầy cô nhiệt tình hướng dẫn với phương pháp dễ hiểu nhất, dễ nhớ nhất. Với phương pháp này tôi đã trang thiết bị cho các em vốn kiến thức phương pháp cơ bản để các em giải dạng toán này không nhầm lẫn, sai sót đến chất lượng học của các em được nâng lên rõ rệt. So với năm học 2013-2014, năm nay các em làm bài tốt hơn nhiều, chất lượng bài làm cũng cao, tỉ lệ nhầm lẫn hay làm bài sai chỉ chiếm có 3 %. Nhìn chung, các em được giải Toán, so sánh cách giải của 2 kiểu bài này sẽ làm bài chính xác cao, chất lượng khả quan. Kết quả khảo sát với 103 học sinh khối 3 ở hai kiểu bài cụ thể như sau:
 TỔNG SỐ HỌC SINH :
 35 em
 Nội dung thử nghiệm
Kết quả trước thử nghiệm
Kết quả sau thử nghiệm 
ĐIỂM
ĐIỂM
0-4
5-6
7-8
9-10
0-4
5-6
7-8
9-10
KIỂU BÀI 1
( Tìm giá trị củacác phần)
 -  Tìm giá trị của 1 phần:
( phép chia) 
(Đây là bước rút về đơn vị) 
-  Tìm giá trị của các phần: (phép nhân : Lấy giá trị 1 phần nhân với số phần ) 
3
12
12
8
0
6
7
22
KIỂU BÀI 2
( Tìm số phần)
-  Tìm giá trị của 1 phần: 
( phép chia) 
(Đây cũng là bước rút về đơn vị) 
-  Tìm số phần. (Phép chia : Lấy giá trị các phần chia cho giá trị 1 phần. )
5
12
12
6
1
6
7
21
 - Kết quả trên cho chúng ta thấy được có phương pháp tốt thì học sinh làm bài tốt
hơn. Chất lượng học của học sinh không tự dưng mà có được, đòi hỏi mỗi người
 giáo viên chúng ta biết phương pháp truyền đạt tới từng đối tượng học sinh. Nhiều
 đồng chí cho rằng dạng toán này dễ. Song, không hẳn như vậy, nếu
 chúng ta truyền 
đạt kiến thức, phương pháp hời hợt, không đi sâu, rộng vấn đề thì các em dễ dàng nhầm lẫn ở bước 2 của 2 kiểu bài đó, cũng có khi nhầm cả sang dạng toán khác. Cho nên dạy Toán ở dạng toán này, chúng ta càng cẩn thận, chi tiết bao nhiêu thì chất lượng tiếp thu và làm bài càng tăng, các em học Toán càng tự tin hơn bấy nhiêu.
 * NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM
 Dạy toán ở Tiểu học nói chung, ở lớp 3 nói riêng là cả một quá trình kiên trì, đầy sự sáng tạo, nhất là đối với dạng toán liên quan đến rút về đơn vị, cho nên khi hướng dẫ học sinh giải toán nói chung, giải dạng toán liên quan đến rút về đơn vị nói riêng chúng ta cần phải:
Tạo niềm hứng thú, sự say mê giải toán, bởi các em có thích học toán thì các em mới có sự suy nghĩ, tìm tòi các phương pháp giải bài toán một cách thích hợp.
2 Hướng dẫn học sinh nắm đầy đủ các kĩ năng cần thiết khi giải toán bằng phương pháp phù hợp, nhẹ nhàng, không gò bó.
 3.Kích thích tư duy sáng tạo, khả năng phân tích, tổng hợp trong khi tìm tòi, phát hiện "đường lối" trong giải toán.
4. Thường xuyên thay đổi hình thức dạy học ở mỗi bài để tránh sự nhàm chán.
5. Tập cho học sinh có kĩ năng tự phân tích bài toán, tự kiểm tra đánh giá kết quả của bài toán, tập đặt các câu hỏi gợi mở cho các bước giải trong bài toán.
6. Phải coi việc giải toán là cả một quá trình, không nóng vội mà phải kiên trì tìm và phát hiện ra “chỗ hổng” sau mỗi lần hướng dẫn để khắc phục, rèn luyện.
7. Nên động viên, khuyến khích các em có đưa ra phương pháp giải gần hợp lí, tránh đưa ra tình huống phủ định ngay.
8 .Gần gũi, động viên những em học yếu môn Toán để các em có tiến bộ, giúp đỡ nhẹ nhàng khi cần thiết.
IV- KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
 1. Kết luận : 
 Dạy toán thành công là một việc rất khó, đũi hỏi ngừơi giáo viên chẳng những phải vững vàng về bản lĩnh, nghiệm vụ sư phạm, kiến thức chuyên môn mà cũng phải có một phong thỏi giảng dạy tốt, tình thương yêu đối với học sinh, lòng tận tuỵ với nghề nghiệm; biết cách làm cho những con số khô khan trở lên có hồn, trở lên thu hút lòng đam mê của học sinh, đó thực sự là thử thách đối với người giáo viên.
 Người thầy tốt là người thầy biết dạy cho học sinh cách tìm ra chân lý chứ không phải là chỉ dạy chân lý. Điều này rất phù hợp với toán học. Toán học cần tư duy cái quá trình, cái diễn tiết logic, phù hợp chứ không chỉ là xác định cái kết quả một cách máy móc.
 Có thể nói dạy toán là một công việc vừa mang tính khoa học vừa mang tính nghệ thuật. Thiếu tính khoa học, người thầy khó có thể truyền đạt một cách hiệu quả, chính xác những kiến thức vừa trỡu tượng vừa cụ thể của toán học cũng như nếu thiếu tính nghệ thuật thỡ người thầy cũng khó có thể hoàn thành những tiết dạy một cỏch xuất sắc, khú tạo sự thu hỳt, chỳ ý ở cỏc em .
 2. Khuyến nghị : 
 * Đối với giáo viên: Tích cực tham gia tích luỹ kiến thức để tập trung nghiên cứu các phương pháp đổi mới ở tất cả các môn học ở bậc Tiểu học.
 * Đối với tổ chuyên môn; Thường xuyên tổ chức các chuyên đề đổi mới phương pháp dạy học, thảo luận sâu sắc cách viết và làm sáng kiến kinh nghiệm.
 * Đối với trường: Cần phát động sâu rộng phong trào viết sáng kiến kinh nghiệm, thường xuyên tổ chức chuyên đề ở tất cả các môn học, đặc biệt là môn Toán..
 * Đối với Phòng Giáo dục và đào tạo: Hàng năm, Phòng nên tổ chức nhiều chuyên đề cấp Huyện, đặc biệt là các chuyên đề liên quan đến các dạng toán cơ bản ở các khối lớp .
* LỜI KẾT
Trên đây, tôi vừa trình bày “ Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải tốt dạng Toán liên quan đến rút về đơn vị ”. Qua đây, muốn góp phần nhỏ vào phương pháp dạy học Toán ở Tiểu học nói chung, phương pháp dạy Toán lớp 3 nói riêng. Hơn nữa, tôi muốn trình bày ý kiến của mình để các thầy cô đóng góp ý kiến xây dựng để cho phương pháp dạy học của tôi hoàn thiện hơn. Kính mong các thầy cô xem xét và nhiệt tình góp ý kiến cho em để tôi có nhiều thành công trong quá trình đổi mới phương pháp dạy học và chia sẻ những kinh nghiệm với đồng nghiệp cùng nhau nâng cao chất lượng giáo dục trong giai đoạn mới . 
Tôi xin trân thành cảm ơn!
 Phương Trung, ngày 6 tháng 4 năm 2014
 Xác nhận Tôi xin cam đoan , đây là sáng kiến của mình 
của thủ trưởng đơn vị viết, không sao chép nội dung của người khác. 
 Tác giả
 Phạm Thị Anh Phương
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đỗ Trung Hiệu- Đỗ Đình Hoan - Vũ Dương Thuỵ- Vũ Quốc Chung 
“ Phương pháp dạy học môn toán tiểu học – Trường Đại học Sư phạm Hà Nội- 2005 ” 
2. Đỗ Đình Hoan - Nguyễn Áng - Đỗ Tiến Đạt - Đào Thái Lai - Đỗ Trung Hiệu 
“ SGK Toán 3” – Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam.
3.Dạy lớp 3 - Theo chương trình Tiểu học mới - Tài liệu bồi dưỡng giáo viên Tiểu học
4. Tài liệu bồi dưỡng giáo viên dạy lớp 3, NXB Giáo dục.
5. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2009), Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng các môn học ở Tiểu học lớp 3, NXB Giáo dục.
6. Chương trình tiểu học (Ban hành kèm theo quyết định số 43/2001/QĐ - BGD & ĐT ngày 9/11/2001 của Bộ giáo dục và Đào tạo).
 MỤC LỤC Trang
Trang bìa phụ 
Sơ yếu lý lịch : 1 
PH ẦN 1 : MỞ ĐẦU 
 Ý KIẾN NHẬN XÉT ĐÁNH GIÁ VÀ XẾP LOẠI CỦA
HỘI ĐỒNG KHOA HỌC CẤP CƠ SỞ 
...................................................................................................................................... 
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG ( Ký tên , đóng dấu )
Ý KIẾN NHẬN XÉT ĐÁNH GIÁ VÀ XẾP LOẠI CỦA
HỘI ĐỒNG KHOA HỌC CẤP HUYỆN ...................................................................................................................................... 
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG ( Ký tên , đóng dấu )

File đính kèm:

  • docSKKN.doc
Sáng Kiến Liên Quan