Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp chỉ đạo nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ mầm non

 Như chúng ta đã biết: Ngành học mầm non là ngành học nằm trong hệ thống giáo dục quốc dân, “Ngành học có nhiệm vụ thực hiện nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ từ 3 tháng tuổi đến 6 tuổi”. Nếu được chăm sóc, nuôi dưỡng , giáo dục tốt, trẻ sớm phát triển thể chất và trí tuệ một cách đúng hướng và mạnh mẽ. Nó là giai đoạn cực kỳ quan trọng trong sự hình thành và phát triển tất cả các khả năng của trẻ , hình thành cho trẻ những cơ sở ban đầu của nhân cách con người mới xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

 Luật bảo vệ chăm sóc trẻ em cũng đã nêu rõ: “Sức khoẻ của trẻ em hôm nay là sự phồn vinh cho xã hội mai sau”. Để đáp ứng với những yêu cầu phát triển đi lên của đất nước trong giai đoạn hiện nay, mục tiêu chiến lược phát triển giáo dục của bậc học mầm non đã chỉ rõ: “Nâng cao chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ trước 6 tuổi, tạo cơ sở để trẻ phát triển toàn diện về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ ”

 Trong những năm gần đây Đảng và nhà nước rất quan tâm đến GD&ĐT. Nghị quyết TW II Khoá VIII của Đảng đã khẳng định: "GD Là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho G D là đầu tư cho sự phát triển" Mục tiêu của GD MN là chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục trẻ vì trẻ là hạnh phúc của gia đình là tương lai của đất nước là lớp người kế tục và xây dựng đất nước. Như vậy, có thể nói: Đảng và nhà nước ta đã và đang rất quan tâm đến việc chăm sóc sức khoẻ trẻ em và xem việc nâng cao sức khoẻ cho trẻ em là vấn đề quan trọng trong chiến lược phát triển con người. Trong những năm qua bậc học mầm non đã tổ chức tập huấn rất nhiều lớp chuyên đề về vệ sinh an toàn thực phẩm và kiến thức về chăm sóc sức khỏe cho trẻ trong trường mầm non. Nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng bảo vệ sức khoẻ cho trẻ.

 

doc37 trang | Chia sẻ: duycoi179 | Lượt xem: 24214 | Lượt tải: 2Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp chỉ đạo nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ mầm non", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n và có trách nhiệm trước pháp luật về chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm, đảm bảo giá cả hợp lý, ổn định.
 Thực phẩm hợp đồng với nhà trường phải tươi sống như: Rau, thịt được nhận vào mỗi buổi sáng và được kiểm tra đảm bảo về chất lượng, đủ về số lượng hàng ngày thì BGH và nhân viên mới ký nhận và chế biến. Nếu thực phẩm không đảm bảo chất lượng như ẩm mốc, hôi thiu, kém chất lượngSẽ cắt hợp đồng.
Đối với thực phẩm nấu chín thường xuyên lưu mẫu thức ăn trong tủ lạnh 24 tiếng đồng hồ, trong quá trình sử dụng thực phẩm nếu chất lượng thực phẩm không đảm bảo thì có biện pháp xử lý kịp thời không để tình trạng dùng thực phẩm kém chất lượng trước khi chế biến cho trẻ.
* Nhà trường thành lập ban chỉ đạo y tế học đường gồm:
Đ/C Hiệu trưởng là trưởng ban
1 Đ/C  Hiệu phó phụ trách phần nuôi dưỡng cho trẻ là phó ban
Đ/C CTCĐ, Đ/C nhân viên y tế, 3 Đ/C TTCM
Đại diện cha mẹ học sinh Ban chỉ đạo có trách nhiệm đẩy mạnh công tác vệ sinh an toàn thực phẩm và phòng chống các dịch bệnh trong nhà trường. Theo sự chỉ đạo của nhà trường ban chỉ đạo xây dựng kế hoạch kiểm tra hàng ngày, định kỳ cụ thể và đột xuất được phân công cụ thể đến các thành viên trong ban chỉ đạo. 
* Để đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm trước hết cần phải chú ý đến:
- Cách lựa chọn thực phẩm phải tươi, đảm bảo an toàn thực phẩm tức thức ăn không bị nhiễm các hóa chất độc hại. Để làm được điều đó nhà trường đã ký hợp đồng mua bán thực phẩm tươi sạch với từng nơi cung cấp.
- Cách pha chế thực phẩm phải đảm bảo từ khâu chuẩn bị chế biến, ngâm rau sau đó mới rửa khi rửa rau phải rửa xong mới được thái. Chế biến theo quy trình một chiều từ sống đến chín, không được cho thức ăn sống lẫn với thức ăn đã được nấu chín.
- Khi chia thức ăn phải được bỏ vào xoong có vung đậy để đảm bảo vệ sinh tránh bụi và ruồi, muỗi.
( Kiểm tra quá trình chia ăn cho trẻ)
- Thức ăn hàng ngày phải được lưu mẫu vào tủ lạnh đúng quy trình24/24 giờ.
 Thực hiện biện pháp này tốt thì trẻ có khả năng chống đở bệnh tật cao, trẻ phát triển lành mạnh, hài hòa, tạo điều kiện cho sự phát triển toàn diện về thể chất.
* Nơi chế biến thực phẩm luôn thường xuyên giữ vệ sinh sạch sẽ có dụng cụ riêng cho thực phẩm sống và chín.
- Vệ sinh khi chế biến thực phẩm: Thực phẩm được sơ chế trên bàn, sau khi sơ chế thì chế biến ngày, đun nấu kỹ đảm bảo chất lượng. Dụng cụ chế biến và phục vụ ăn uống cho trẻ đầy đủ, dùng cho chế biến sống và chín riêng, đảm bảo vệ sinh.
- Bếp nấu ăn đảm bảo đủ ánh sáng và không khí.
- Bếp thực hiện quy trình một chiều để đảm bảo vệ sinh.
- Tổ chức bồi dưỡng kiến  thức vệ sinh an toàn thực phẩm cho toàn thể cán bộ, giáo viên, nhân viên trong nhà trường tham gia ngay vào đầu năm học.
- Nhà bếp luôn luôn hợp vệ sinh, đảm bảo bếp không bị bụi, có đủ dụng cụ cho nhà bếp và đồ dùng ăn uống cho trẻ, có đủ nguồn nước sạch cho trẻ phục vụ ăn uống. Ngoài ra trong nhà bếp có bảng tuyên truyền 10 nguyên tắc vàng về vệ sinh an toàn thực phẩm cho mọi người cùng đọc và thực hiện. Phân công cụ thể ở các khâu: chế biến theo thực đơn, theo số lượng đã quy định của nhà trường, đảm bảo nhu cầu dinh dưỡng và hợp vệ sinh.
* Vệ sinh nhân viên nhà bếp:
+ 100% nhân viên nhà bếp được trang bị đầy đủ quần áo, khẩu trang, tạp dề
+ 100% được khám sức khỏe theo định kỳ, có sức khỏe tốt, không mắc bệnh truyền nhiễm.
+ 100% giáo viên không được đeo nhẫn, vòng, đồng hồ trong khi chế biến thức ăn và rửa tay bằng xà phòng trước khi chế biến thức ăn đúng quy định thường xuyên.
- Đối với nhân viên nấu ăn phải thường xuyên kiểm tra sức khoẻ trước khi làm việc vào đầu năm học mới, và sau sáu tháng làm việc tiếp theo. Trong quá trình chế biến thức ăn cho trẻ đầu tóc gọn gàng, móng tay luôn cắt ngắn và sạch sẽ, tuyệt đối không được bốc thức ăn khi chia cho trẻ.
- Nhà trường phối hợp cùng với công đoàn tổ chức xây dựng vườn rau cho bé tại ngay sân trường để góp phần cung cấp dinh dưỡng và cải thiện bữa ăn cho trẻ luôn đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm.
- Bếp được trang bị sử dụng bếp ga, nồi cơm điện không gây độc hại cho nhân viên và khói bụi cho trẻ.
- Cọ rửa vệ sinh các dụng cụ chế biến thực phẩm hàng ngày sau khi sử dụng.Thùng rác thải, nước gạo luôn được thoát và để đúng nơi quy định,  các loại rác thải được chuyển ra ngoài hàng ngày kịp thời.
- Nhân viên phải mặc trang phục trong khi nấu ăn: đeo tạp dề, đội mũ khi chế biến, đeo khẩu trang trước khi chia thức ăn và rửa tay bằng xà phòng tiệt trùng
 Hàng ngày trước khi bếp hoạt động, nhà trường đã có kế hoạch phân công cụ thể các nhân viên cấp dưỡng thay phiên nhau đến sớm làm công tác thông thoáng phòng cho không khí lưu thông và lau dọn sàn nhà, kệ bếp, kiểm tra hệ thống điện, ga trước khi hoạt động. Nếu có điều gì biểu hiện không an toàn thì nhân viên cấp dưỡng báo ngay với lãnh đạo nhà trường để biết và kịp thời xử lý.
- Ngoài công tác vệ sinh hàng ngày, định kỳ, hàng tháng phải tổng vệ sinh xung quanh nhà bếp, vệ sinh nhà bếp - dụng cụ nhà bếp - dụng cụ ăn uống nơi sơ chế thực phẩm sống-khu chế biến thực phẩm-chia cơm-nơi để thức ăn chín
- Khu nhà bếp chế biến thực phẩm được đảm bảo vệ sinh và tránh xa nhà vệ sinh, bãi rác, khu chăn nuôikhông có mùi hôi thối xảy ra khi chế biến thức ăn.
- Dao thớt sau khi chế biến luôn được rửa sạch để ráo hàng ngày và được sử dụng đúng giữa thực phẩm sống và chín.Người không phận sự không được vào bếp.
Biện pháp 7: Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra chế độ ăn và nuôi dưỡng- chăm sóc trẻ:
 Để đảm bảo tiêu chuẩn ăn uống cho trẻ, để cho các bậc phụ huynh học sinh yên tâm và chính quyền địa phương cũng như các đoàn thể tin cậy ban giám hiệu nhà trường cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra đôn đốc, giám sát thường xuyên, chặt chẽ, giúp chị em làm tốt nhiệm vụ, tránh phạm sai lầm. Qua công tác kiểm tra giúp chúng tôi biết được biện pháp nâng cao chất lượng nuôi dưỡng đã được thực hiện đến đâu, qua việc nắm bắt tình hình phát hiện những sai lệnh kịp thời để khắc phục.
Ví dụ: Khi kiểm tra nhóm dinh dưỡng chúng tôi phát hiện thấy có một số loại thực phẩm không được tươi hoặc không đủ số lượng cân theo quy định ở trong thực đơn, nhà trường họp tổ rút kinh nghiệm ngay để các cô chấn chỉnh lại việc làm chưa tốt của mình.
Tôi đã chỉ đạo nhà trường tiến hành kiểm tra như sau:
- Kiểm tra các thao tắc chế biến món ăn, thực hiện quy chế ở các nhóm, có thể tiến hành kiểm tra đột xuất, không báo trước để tránh tư tưởng đối phó, kiểm tra các giờ kiểm tra bữa ăn, giờ ngũ của trẻ, vệ sinh phòng, nhóm lớp để biết giáo viên có thực hiện đúng và thường xuyên không.
- Kiểm tra theo dõi chất lượng bữa ăn: cháu ăn có đúng thực đơn không? đủ số lượng cho cháu không? kiểm tra kỹ thuật chế biến món ăn có ngon, có hợp khẩu vị với trẻ không? trẻ ăn có hết suất của mình không ?
- Kiểm tra sổ y tế: Theo dõi sức khỏe của cháu trên biểu đồ tăng trưởng , đối chiếu so sánh rút kinh nghiệm cho việc nuôi dưỡng chăm sóc sức khỏe cho trẻ.
- Kiểm tra vệ sinh phòng nhóm lớp và vệ sinh nhà bếp (đồ dùng chế biến nấu ăn) 
- Phối hợp với phụ huynh học sinh cùng giám sát kiểm tra chất lượng ăn của trẻ thường xuyên trong năm học.
 Qua biện pháp trên tôi không chỉ đơn thuần là kiểm tra việc thực hiện biện pháp chăm sóc – dinh dưỡng cho trẻ đã đề ra mà còn giúp giáo viên trong trường chấn chỉnh lại việc làm của mình kịp thời và từ đó có ý thức làm việc cẩn thận, có trách nhiệm, không qua loa chiếu lệ
Biện pháp 8: Chỉ đạo và giám sát việc xây dựng thực đơn, tính khẩu phần ăn và quá trình thực hiện:
 Xây dựng thực đơn và tính khẩu phần ăn cho trẻ là một việc làm mang tính chất khoa học, nhằm mục đích sử dụng tiền ăn với chất lượng cao. Khi tiền ăn được phân phối hợp lý sẽ tránh được những chi tiêu không hợp lý, giảm tối đa sự thâm, thừa tiền ăn trong ngày. Chỉ đạo, giám sát việc xây dựng thực đơn, tính khẩu phần ăn là một biện biện pháp thể hiện tính hiệu quả và tiết kiệm trong quản lý. Vì vậy tôi đã chỉ đạo đ/c hiệu phó phụ trách bán trú, kế toán, các tổ chăm sóc và các nhóm lớp hỗ trợ cho việc xây dựng thực đơn và đảm bảo khẩu phần ăn của trẻ, sau khi xây dựng thực đơn xong bố trí cho giáo viên trực tiếp xuống nhà bếp, các lớp tham quan dự giờ ăn của trẻ.từ đó tìm ra những món ăn thích hợp và bổ dưỡng đối với trẻ để chỉnh sủa được thực đơn cho phù hợp, thực đơn đi chợ hàng ngày phải có đầy đủ 3 chữ ký của người lên thực đơn, người thực hiện đi chợ và người nhận hàng khi đi chợ về. Số giao nhân thực phẩm hàng ngày phải ghi rõ số lượng và chất lượng thực phẩm khi nhận. hiệu trưởng phải có mặt từ 2- 3 lần/ tuần để duy trì thực hiện quy chế, để nắm bắt giá cả thực phẩm, để biết cách ước lượng thực phẩm bằng mắt và nhất là để kiểm soát thực đơn của trẻ trong ngày tránh tình trạng thất thoát thực phẩm, thực phẩm mua không rõ nguồn gốc, không đảm bảo chất lượng
 Hàng ngày kế toán vào sổ tính định lượng để cân đối tiền thu, tiền chi trong ngày của trẻ và biết được định lượng các chất và calo trẻ đạt được là bao nhiêu để kịp thời bổ xung vào ngày hôm sau. 
* Đánh giá khẩu phần ăn:
- Hiện nay với cách tổ chức ăn uống ở trường mầm non Trung Mầu; lứa tuổi mẫu giáo được ăn hai bữa: một Chính, một bữa phụ theo yêu cầu của viện dinh dưỡng cần đạt 50% năng lượng trong ngày, phần còn lại trẻ được ăn tại gia đình. Khi đã có số lượng thức ăn của trẻ trong cả ngày ở trường mầm non và dựa vào nhu cầu năng lượng và các chất dinh dưỡng của trẻ để đánh giá khẩu phần .
. Đánh giá khẩu phần ăn về các mặt:
- Có đủ năng lượng so với yêu cầu không ?
- Số gam Protein, Lipit, Gluxit và các vitamin, khoáng chất đặc biệt là Ca, P, Fe có đủ so với nhu cầu không ?
- Tính cân đối của khẩu phần đã đạt chưa?
 Cụ thể là tỷ lệ động vật và protein thực vật có chiếm tỷ lệ bằng nhau theo yêu cầu, loại nào ít, loại nào nhiều?
- Tỷ lệ Lipit động vật và Lipit thực vật?
- Lượng vitamin A, D, E B1, C, B12 có đạt so với yêu cầu không?
- Các chất khoáng như: Ca, P, Fe có đạt so với yêu cầu không?
Qua số liệu trên có thể đánh giá khẩu phần ăn đó tốt hay chưa ?
*Bổ xung.
 Dựa vào cách đánh giá trên ta sẽ có bổ xung cho khẩu phần ăn được hợp lý hơn. Ta có thể tính ra số lượng thức ăn mỗi loại khẩu phần ăn cần bổ xung. Qua điều tra khẩu phần ăn của trẻ ở trường cho thấy: khẩu phần ăn của trẻ ở trường có hôm còn thiếu năng lượng và các chất dinh dưỡng cần thiết.
- Các chất dinh dưỡng chưa được cân đối. 
Ví dụ: Tỷ lệ Protein động vật còn thấp hơn nhiều so với nhu cầu. 
	 Tỷ lệ các chất khoáng và vitamin chưa hợp lý.
Đánh giá:
Một điều cần chú ý là khẩu phần của trẻ còn bị bỏ thừa có khi tới 1/4 khẩu phần. Do trẻ ốm, mệt mỏi, do thời tiết, không ăn quen món ăn đó hoặc có hôm kỹ thuật nấu ăn chưa tốt, trẻ không thích ăn. Vì vậy cần phải theo dõi số lượng thức ăn để tính toán cho chính xác.
C. KẾT LUẬN.
 I. Kết quả nghiên cứu:
 Qua quá trình nghiên cứu và đưa ra các biện pháp trong quản lý chỉ đạo thực hiên hoạt động chăm sóc, nuôi dưỡng và bảo vệ sức khoẻ cho trẻ trong trường mầm non, nhà trường chúng tôi đã thu được rất nhiều kết quả hết sức khích lệ cụ thể như: Số trẻ đến trường ngày càng đông, tỉ lệ bán trú ngày càng được nâng cao. Các cháu được đảm bảo an toàn 100% tại trường. Trẻ suy dinh dưỡng tỷ lệ giảm xuống còn 2%, Trẻ mắc các loại bệnh còn 4,06% kết quả được thể hiện như sau:
1.Chất lượng chăm sóc , nuôi dưỡng trẻ:
Đầu năm:
Độ tuổi
Tổng số trẻ
Kênh bình thường
Kênh
 SDD/
TC
Bệnh TMH
Trẻ mắc bệnh
 Sâu răng
18 – 36 tháng
3-4 tuổi
4-5 tuổi
5-6 tuổi
Cộng
Tỷ lệ
Cuối năm:
Độ tuổi
Tổng số trẻ
Kênh bình thường
Kênh suy dinh dưỡng
Trẻ mắc bệnh sâu răng
Bệnh TMH
18 – 36 tháng
3-4 tuổi
4-5 tuổi
5-6 tuổi
Tổng cộng
Tỷ lệ
 2. Về đội ngũ giáo viên, nhân viên:
 100% cán bộ, giáo viên đã được học tập chuyên đề về vệ sinh an toàn thực phẩm do trung tâm vệ sinh an toàn thực phẩm tỉnh tổ chức.
 Qua kiểm tra, dự các buổi chế biến món ăn và chăm sóc trẻ 100% các cô đều đạt khá và giỏi, đặc biệt không có vụ ngộ độc nào xảy ra.
 Hội thi nhân viên nuôi dưỡng giỏi cấp trường có ... đồng chí tham gia đều đạt kết quả tốt
3. Về cơ sở vật chất:
 Nhà trường đã cải tạo 01 nhà bếp đảm bảo quy trình một chiều, có đủ đồ dùng phục vụ chăm sóc, nấu ăn cho trẻ như: Bàn chia ăn, xoong, nồi cơm ga, máy xay thịt, tủ lạnh, tủ đựng bát, đựng dụng cụ chế biến
 Trên đây là kết quả mà tôi đã thu được trong năm học 2015-2016. Tuy rằng kết quả chưa cao nhưng đó là sự cố gắng rất lớn, là nguồn động viên đáng khích lệ trong công tác quản lý nuôi dưỡng, chăm sóc sức khoẻ trẻ trong trường mầm non. 
V. BÀI HỌC KINH NGHIỆM:
 Chúng ta biết rằng việc chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ là một công việc khó khăn, vất vả, ảnh hưởng đến việc giáo dục phát triển toàn diện nhân cách cho trẻ , đến lợi ích trước mắt và sau này cho thể hệ mầm non. Đó là đường lối của Đảng, là nguyện vọng chính đáng của các bậc phụ huynh. Vì vậy trong quá trình quản lý và chỉ đạo, Ban giám hiệu nhà trường phải xác định rõ được nhiệm vụ của mình trong việc chỉ đạo thực hiện hoạt động chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ như:
 Xác định tầm quan trọng của công tác nuôi dạy và chăm sóc trẻ ở trường Mầm non,để xây dựng kế hoạch thực hiện nhiệm vụ của nhà trường. Thường xuyên tổ chức cho cán bộ , giáo viên, nhân viên học tập các chuyên đề, bổ sung kiến thức và nâng cao tinh thần trách nhiệm trong công tác. 
 Xây dựng kế hoạch chỉ đạo rõ ràng, cụ thể , luôn bám sát hoạt động bán trú, tăng cương công tác kiểm tra . Nhằm nâng cao hiệu quả chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ. 
 Hàng năm thực hiện tổ chức các hội thi về công tác chăm sóc dinh dưỡng để tuyên truyền với phụ huynh, nhằm làm cho họ hiểu nhiều , sâu hơn về tầm quan trọng của ngành học mầm non để từ đó họ nhiệt tình tham gia giúp đỡ nhà trường trong công tác chăm sóc, giáo dục trẻ.
 Ngoài ra Ban giám hiệu nhà trường luôn có kế hoạch tham mưu với các cấp lãnh đạo Đảng , chính quyền, các cơ quan đoàn thể phối hợp với các ngành đóng trên địa bàn hỗ trợ tạo điều kiện thuận lợi cho công tác nuôi dưỡng và giáo dục trẻ, khắc phục khó khăn, tích cực xây dựng các điều kiện thiết yếu về cơ sở vật chất để thu hút được đông trẻ đến trường, làm tăng thu nhập cho giáo viên cả về vật chất cũng như tinh thần để giáo viên có điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ ngày một tốt hơn.
 Không ngừng học hỏi các bạn bè đồng nghiệp,tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao năng lực quản lý và trình độ chuyên môn. Thường xuyên rèn luyện phẩm chất đạo đức, năng lực sáng tạo trong quản lý trường mầm non.
Sau một thời gian nghiên cứu bản thân tôi đã rút ra bài học kinh nghiệm như sau:
	Một là: Người quản lý phải ý thức rõ vai trò và trách nhiệm của mình không ngừng nghiên cứu, tìm hiều, học hỏi đồng nghiệp về kiến thức chăm sóc nuôi dưỡng trẻ, học hỏi kinh nghiệm chăm sóc nuôi dưỡng qua các phương tiện truyền hình, tài liệu, tạp chí, sách báo... để đáp ứng đầy đủ nhu cầu dinh dưỡng và giáo dục trẻ.
	Hai là: Giáo viên phải nắm vững kiến thức, kỹ năng chăm sóc nuôi dưỡng, nắm vững đặc điểm tâm sinh lý của trẻ, phải có tấm lòng người mẹ thứ hai để chăm sóc nuôi dưỡng trẻ, không ngừng nâng cao bồi dưỡng nghiệp vụ chăm sóc nuôi dưỡng. Đối với giái viên nuôi dưỡng luôn cập nhật hoá các phương pháp chế biến món ăn, vệ sinh an toàn thực phẩm, chế biến thực phẩm đảm bảo ngon mắt, ngon mũi, ngon miệng, hợp khẩu vị, trẻ ăn hết khẩu phần của mình, giúp trẻ tăng cân đều hàng tháng, luôn thay đổi cách chế biến các món ăn theo mùa phù hợp với địa phương.
	Ba là: Làm tốt công tác tuyên truyền đến nhân dân, các bậc phụ huynh học sinh kiến thức nuôi con theo khoa học, làm cho mọi người nhận thức được về vấn đề chăm sóc nuôi dưỡng trẻ tại trường mầm non là rất cần thiết. Mặt khác tạo niềm tin cho các cấp lãnh đạo địa phương, các bậc phụ huynh qua từng việc làm cụ thể trong nhà trường.
	Bốn là: Làm tốt công tác xã hội hoá giáo dục để phát huy sức mạnh tổng hợp của các thành viên trong trường, tham mưu cho các cấp uỷ Đảng, chính quyền, các tổ chức xã hội, các ban ngành đoàn thể để hỗ trợ kinh phí và tạo điều kiện thuận lợi cho công tác chăm sóc nuôi dưỡng và giáo dục. Đặc biệt là các bậc phụ huynh học sinh thống nhất yêu cầu, nội dung, biện pháp và phương pháp chăm sóc nuôi dưỡng hình thành cho trẻ những thói quen văn minh trong ăn uống, giao tiếp ở trường cũng như ở gia đình và ngoài xã hội.
	Năm là: Ban giám hiệu có kế hoạch thường xuyên kiểm tra giám sát việc thực hiện công tác chăm sóc nuôi dưỡng như chế biến các món ăn, tổ chức bữa ăn, tổ chức giấc ngủ, hình thành nề nếp thói quen vệ sinh văn minh trong ăn uống, học tập, vui chơi đối với trẻ.
	Sáu là: Thường xuyên bồi dưỡng nâng cao trình độ cho đội ngũ giáo viên về mọi mặt phẩm chất đạo đức, chuyên môn nghiệp vụ, hội thảo sáng kiến kinh nghiệm, học hỏi kinh nghiệm của các trường điểm, cung cấp tài liệu, tạp chí, tập san về giáo dục mầm non cho giáo viên học tập nghiên cứu, đặc biệt là khâu nuôi dưỡng cách chọn mua thực phẩm đúng hợp đồng tươi ngon, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm.
	Bảy là: Nhà trường tổ chức làm rau sạch phục vụ cho ăn bán trú, động viên giáo viên, phụ huynh cung cấp lương thực, thực phẩm sạch cho nhà trường.
	Tám là: Nhà trường phối hợp với hội phụ huynh học sinh thành lập ban kiểm tra để thường xuyên theo dõi giám sát công tác chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục trẻ tai trường, có những phản ánh kịp thời cho ban giám hiệu để từ đó có những uốn nắn kịp thời.
	Chín là: Cân đo khám sức khoẻ cho trẻ theo định kỳ để báo cáo tình hình sức khoẻ của trẻ cho nhà trường và gia đình để có biện pháp chăm sóc giáo dục kịp thời.
	Với những kinh nghiệm trên tôi đã thực hiện trong quá trình chỉ đạo chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục trẻ tại trường đạt được một số kết quả góp phấn nhỏ bé vào sự nghiệp giáo dục trẻ ở trường mầm non.
VI: KIẾN NGHỊ ĐỀ XUẤT:
	Mở các lớp tập huấn bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý, giúp cán bộ quản lý làm giàu tri thức và kinh nghiệm chỉ đạo. Tăng cường mở các lớp bồi dưỡng những kiến thức về dinh dưỡng và vệ sinh an thực phẩm, cách lựa chọn thực phẩm đến cách chế biến, bảo quản thực phẩm, thêm không chỉ cho cán bộ, giáo viên trong trường mầm non mà cả các bậc phụ huynh đều được năm bắt. Để phối kết với nhà trường và gia đình chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ đạt hiệu quả cao.
 Những kết quả đạt được của nhà trường trong năm học 2015-2016,đó là bằng chứng thực tiễn đã chứng minh sự cần thiết mà tôi đã nghiên cứu đưa ra các biện pháp chỉ đạo thực hiện hoạt động chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ là rất đúng đắn.
 Trên đây là một số kinh nghiệm của bản thân trong việc chỉ đạo thực hiện hoạt động nâng cao chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ tại trường Mầm Non Phương Trung II. Với những kết quả đã đạt được đã góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ, từng bước xây dựng Nhà trường; được phòng giáo dục huyện Thanh Oai ,chính quyền và nhân dân địa phương xã Phương Trung tin tưởng. Sáng kiến kinh nghiệm trên của bản thân tôi đã được áp dụng tại trường MN Phương Trung II, thực sự đem lại hiệu quả. 
 Mặc dù đã cố gắng, với tâm huyết của mình nhưng do khả năng có hạn, nên sáng kiến kinh nghiệm của tôi không tránh khỏi thiếu sót, hạn chế; rất mong được sự góp ý, chỉ bảo của lãnh đạo ngành giáo dục, của bạn bè đồng nghiệp để bài viết của tôi được hoàn thiện hơn.
 Phương Trung, ngày 25 tháng 4 năm 2016
 Người viết
 Hoàng Thị Xuân
PHẦN DUYỆT CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC
VI. TÀI LIỆU THAM KHẢO:
Trước khi viết sáng kiến kinh nghiệm này tôi đã tham khảo các tài liệu như:
- Chương trình CS-ND trẻ các độ tuổi
- Cuốn sách hướng dẫn vệ sinh an toàn thực phẩm trong các cơ sở giáo dục mầm non ( NXB Giáo Dục).
- Bảng nhu cầu dinh dưỡng khuyến nghị cho người Việt Nam của Bộ y tế - Viện dinh dưỡng. (NXB Y học Hà Nội Năm 2004).
- 10 lời khuyên dinh dưỡng hợp lý của THS Cù Thị Thủy - Cục Nhà giáo và Cán bộ quản lý cơ sở Giáo dục giai đoan 2006 - 2010.
- Sổ tính khẩu phần ăn dùng trong các trường mầm non do Sở GD & ĐT Thái Nguyên cấp phát.
- Tài liệu bồi dưỡng hè. Kế hoạch nhiệm vụ năm học.
- Nghi quyết Trung ương II (khóa VIII) NXB CTQG Hà Nội/ 1997
- Tài liệu bồi dưỡng cán bộ QL,I, III, NXB HVQLGD Hà Nội/2007
- Tài liệu bồi dưỡng CBQL. MN năm học 2013- 2014
- Chiến lược phát triển GD 1998- 2020 của bộ GD –ĐT

File đính kèm:

  • docSKKN_NUOI_DUONG.doc
Sáng Kiến Liên Quan