Sáng kiến kinh nghiệm Hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong văn thuyết minh với chủ đề giới thiệu về địa phương Yên Mô

Trong chương trình Ngữ văn lớp 10, Văn thuyết minh là một chủ đề quan trọng. Nó vừa chiếm số lượng tiết học nhiều (06 tiết), lại vừa có những yêu cầu cao hơn về kiến thức, kĩ năng so với yêu cầu văn thuyết minh trong chương trình THCS. Vì vậy, nếu việc dạy học văn thuyết minh theo truyền thống, chỉ dừng lại ở lí thuyết, hoặc sự “thăm thú” qua sách vở, tài liệu thì tiết học dễ nhàm chán, đơn điệu.

Đối với các tiết học về Văn thuyết minh, giáo viên soạn thành các tiết nằm riêng lẻ (hoặc có thể đã nhóm thành chủ đề). Các tiết học hướng tới việc hình thành từng kĩ năng cụ thể đối với kiểu bài làm văn thuyết minh như: các hình thức kết cấu của văn bản thuyết minh, phương thức thuyết minh Ưu điểm của giải pháp này là HS có thể hiểu rõ từng yêu cầu, đặc điểm của những kĩ năng cụ thể của việc thuyết minh. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện nhiều năm chúng tôi nhận thấy những hạn chế:

- Các bài học chỉ tập trung vào một kĩ năng cụ thể, thiếu sự xâu chuỗi giữa các kĩ năng để đi đến thực hiện mục đích cuối cùng là tạo lập được một văn bản thuyết minh.

- Các kĩ năng cụ thể đã được học ở THCS. Việc ôn tập lại nhiều về lí thuyết không mang lại nhiều tác dụng.

 

doc46 trang | Chia sẻ: lacduong21 | Lượt xem: 944 | Lượt tải: 2Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong văn thuyết minh với chủ đề giới thiệu về địa phương Yên Mô", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Ninh Bình. Theo sử sách ghi lại làng gốm Bồ Bát đã nổi danh cách đây hàng ngàn năm với những sản phẩm gốm sáp trắng độc đáo và nhiều chủng loại. Thời Lý Trần những người thợ tài hoa của làng đã sáng tạo ra những sản phẩm cao cấp như gạch đất nung mang tên “Đại Việt quốc quân thành chuyên” (loại gạch chuyên dùng để xây thành) Bên cạnh đó còn có không ít những di vật gốm tinh xảo như đầu rồng, linh thú, đã được tìm thấy khi khai quật khảo cổ tại khu vực đền vua Đinh, vua Lê. 
Để có thể làm ra một sản phẩm gốm nghệ thuật thì phải trải qua rất nhiều công đoạn. Đầu tiên đó là khâu làm đất hay còn gọi là thấu đất. Những khối đất được lấy tại chính vùng đất trong thôn được đem về xưởng để ngâm vào bể chứa. Trong bể chứa chia làm 4 ngăn bể với những chức năng riêng để xử lí đất sét như: bể đánh để ngâm đất sét trong vòng 3-4 tháng cho đất chín rồi đánh thành dịch lỏng đổ sang bể lắng. Khi các chất tạp nổi lên trên bề mặt dịch lỏng sẽ được tách ra khỏi tạp chất và đưa sang bể phơi trong khoảng 3-4 ngày. Và cuối cùng dịch lỏng được đưa sang bể ủ. Đất ủ càng lâu sẽ có thể làm ra sản phẩm càng tốt. 
Sau khi đã xử lí tốt đất sét sẽ chuyển sang công đoạn tạo hình sản phẩm (chuốt gốm). Có 3 phương pháp tạo hình chính là: Tạo hình trên bàn xoay; tạo hình bằng khuôn và nặn đắp bằng tay. Cũng có những sản phẩm được tạo bởi sự kết hợp của cả 3 phương pháp trên. Với phương pháp tạo hình đắp nặn bằng tay thì yêu cầu kỹ thuật rất cao được thể hiện rõ qua hình ảnh các con kê; đỉnh gốm, bao nung, lon, vại, các loại linh thú, tượng Phương pháp thứ 2 là phương pháp tạo hình trên bàn xoay. Đây là phương pháp đã có từ rất xưa. Đất luyện kỹ vừa, có độ dẻo được nặn thành dây dài to bằng cổ tay, người thợ chuốt ngắt từng đoạn, khoanh trũng giữa bàn xoay, chân phải đạp bàn, hai tay chuốt. Mọi sản phẩm to, nhỏ, dày, mỏng đều do hai bàn tay điều khiển, không có khuôn mẫu nhất định, kích thước từng cỡ do mực mắt, có sai lệch nhưng không đáng kể. Tạo hình bằng bàn xoay, thường dùng để sản xuất những sản phẩm gốm có kích thước lớn như: Chum, lọ, bình, âuVà phương pháp thứ 3 là tạo hình bằng khuôn: Phương pháp này thường dùng để sản xuất các loại sản phẩm có khối lượng lớn như: Bát, đĩa, chén 
Sau khi trải qua khâu tạo hình, các sản phẩm được đem phơi khô và rồi được đưa vào khâu trang trí. Với những sản phẩm không cần họa tiết trên thân thì không trải qua khâu này. Người thợ dùng bút lông vẽ trực tiếp trên nền mộc các hoa văn hoạ tiết. Thợ vẽ gốm phải có tay nghề cao, hoa văn họa tiết phải hài hoà với dáng gốm, các trang trí hoạ tiết này đã nâng nghề gốm lên mức nghệ thuật, mỗi cái là một tác phẩm. Thợ gốm Bồ Bát cũng đã dùng rất nhiều hình thức trang trí khác, có hiệu quả nghệ thuật như đánh chỉ, bôi men chảy màu, vẽ men màu Với những sản phẩm đòi hỏi yêu cầu cao ở hình dảng thì sau khi chuốt và phơi nắng xong, khi nào đất se cứng thì tiến hành sửa, gọt, cạo nhẵn theo đúng ý muốn. Các chi tiết khác như: quai, tai hoặc trang trí các hình động vật nổi, hoa lá Tất cả đều được thực hiện ở giai đoạn này. Khắc vạch là phương pháp trang trí hoa văn chủ yếu. Người thợ gốm vẽ hoặc khắc vạch trực tiếp lên xương gốm sau đó đem nung. Một số sản phẩm gốm khác có hoa văn khắc chìm vào xương gốm được thực hiện bằng phương pháp in khuôn. Điển hình là các sản phẩm gốm men ngọc và gốm men hoa nâu. Khi sản phẩm mộc đã hoàn chỉnh, người thợ gốm có thể nung sơ bộ sản phẩm ở nhiệt độ thấp rồi sau đó mới đem tráng men hoặc dùng ngay sản phẩm mộc hoàn chỉnh đó trực tiếp tráng men lên trên rồi mới nung. Người thợ gốm Bồ Bát thường chọn phương pháp tráng men trực tiếp lên trên sản phẩm mộc hoàn chỉnh. Sản phẩm mộc trước khi đem tráng men phải được làm sạch bụi bằng chổi lông. Những sản phẩm mà xương gốm có màu trước khi tráng men phải có một lớp men lót để che bớt màu của xương gốm, đồng thời cũng phải tính toán tính năng của mỗi loại men định tráng lên từng loại xương gốm, nồng độ men, thời tiết và mức độ khó của xương gốm
Kĩ thuật tráng men có nhiều hình thức như phun men, dội men lên bề mặt cốt gốm cỡ lớn, nhúng men đối với loại gốm nhỏ nhưng thông dụng nhất là hình thức láng men ngoài sản phẩm, gọi là “kìm men”, và khó hơn cả là hình thức “quay men” và “đúc men”. Quay men là hình thức tráng men bên trong và bên ngoài sản phẩm cùng một lúc, còn đúc men thì chỉ tráng men trong lòng sản phẩm. Đây là những thủ pháp tráng men của thợ gốm Bát Tràng, vừa là kĩ thuật vừa là nghệ thuật, được bảo tồn qua nhiều thế hệ, thậm chí đã từng là bí quyết trong nghề nghiệp ở đây. Sau đó người thợ gốm tiến hành tu chỉnh lại sản phẩm lần cuối trước khi đưa vào lò nung. Trước hết phải xem kĩ từng sản phẩm một xem có chỗ nào khuyết men thì phải bôi quệt men vào các vị trí ấy. Sau đó họ tiến hành “cắt dò”. Tức cạo bỏ những chỗ dư thừa men, công việc này gọi là “sửa hàng men”. 
Cuối cùng là đưa những tác phẩm nghệ thuật đó vào lò nung. Đây là công đoạn quan trọng quyết định sự thành công hay thất bại của một mẻ gốm. Có nhiều loại lò được sử dụng. Nhưng phổ biến là lò cóc và lò bầu, gần đây là lò hộp. Nhiên liệu đun là củi, than cám hoặc gas. Tuỳ theo mỗi loại lò và mỗi dạng gốm cụ thể mà thời gian nung và nhiệt độ nung cũng khác nhau. Gốm đất nung ở nhiệt độ từ 600 – 900 độ C, gốm sành nâu từ 1100 – 1200 độ C, gốm sành xốp từ 1200 – 1250 độ C, gốm sành trắng từ 1250-1280 độ C và đồ sứ từ 1280 – 1350 độ C.
Sản phẩm gốm Bồ Bát hiện nay được rất nhiều người ưa chuộng. Các sản phẩm trên thị trường được đánh giá rất tốt do men dày, trắng và sâu men, độ bền cơ học tốt, giá thành bằng một nửa so với sản phẩm cùng loại trên thị trường. Đội ngũ thợ có tay nghề giỏi của xưởng gốm tập trung nghiên cứu, chọn lọc tìm hiểu những nét văn hóa đặc trưng, hiện vật đặc sắc, cô đọng của quê hương để chuyển tải bằng nét vẽ hoa văn, hình ảnh cách điệu trên gốm. Đến đây được chứng kiến các nghệ nhân trẻ tuổi miệt mài vẽ các họa tiết lên sản phẩm, hay nhào nặn đất dường như tôi đã thấy cái khí thế của một làng nghề đang dần quay trở lại, dù còn nhiều khó khăn trước mắt. Vậy là tâm huyết của chàng thanh niên trẻ tuổi Phạm Văn Vang và người dân làng Bạch Liên đã làm sống lại và đỏ lửa lò gốm cổ đã nguội tắt từ cách đây hàng trăm năm, sống lại thương hiệu gốm Bồ Bát.
 Hiện nay thương hiệu gốm Bồ Bát được dần khẳng định mình trên thị trường trong nước. Và tôi tin rằng không bao lâu nữa những sản phẩm nơi đây sẽ vươn ra đấu trường gốm quốc tế. Nơi đây không chỉ là một địa chỉ lưu giữ những giá trị tinh hoa văn hóa dân tộc mà còn chứa đựng những giá trị tinh thần lớn lao. Giữa bộn bề cuộc sống tấp nập nhưng nơi đây vẫn là một điểm đến một chốn đi về bình yên của con người. Nếu có dịp bạn hãy thử đến thăm làng gốm nơi đây để có thể trải nghiệm không khí làng nghề thủ công truyền thống.
Sản phẩm 6
CHÙA CỔ LINH
(Lớp 10E – nhóm 2)
Vũ Phương Nhung
Đỗ Thị Phương Thảo
Lã Thị Ngọc Anh
An Viết Đạt
Đinh Thị Hà Giang
Tạ Kim Dũng
Nguyễn Thị Thanh
	Chùa có tên là ''Cổ Linh tự'' (chùa Cổ Linh). Theo truyền lại, chùa được khởi dựng cách đây khoảng 400 năm. Dưới sự quan sát của các nhà địa lý đã phát hiện ra khu đất có hình chữ ''Vương'' ( ), phong thủy hữu tình, linh khí hội tụ nên đã chọn để dựng chùa.
	Thế kỉ 17, nhà Trịnh thấy chùa có địa thế đẹp nên đã lấy quyền nhà chúa để chuyển chùa về cuối làng (vị trí của chùa Phượng Ban ngày nay) và đặt lăng mộ của gia tộc nhà Trịnh vào đất chùa. Từ đó dân cư trong làng bất an, đầu đinh suy giảm, chăn nuôi khó khăn, dịch bệnh hoành hành, lòng dân hoang mang lo sợ. Cho đến khi nhà Trịnh thất thủ dưới triều Tây Sơn, dân làng đã chuyển chùa tọa lạc tại vị trí cũ. Thăng trầm lịch sử, chùa trùng tu nhiều lần, nhưng hiện nay về cơ bản chùa vẫn giữ được phong cách kiến trúc thời Nguyễn. Cũng từ đó, chùa có tên ''Cổ Linh Tự'' để khẳng định sự cổ kính và linh thiêng của ngôi chùa.
	Chùa Cổ Linh nằm về phía Đông Bắc UBND xã Khánh Thịnh, cách thị trấn Yên Thịnh huyện Yên Mô 2km. Theo kết quả khảo cổ, vùng đất Yên Mô đã có con người sinh sống cách đây hàng vạn năm.
	Cuối năm 1945, tổng Yên Liêu gồm 3 xã cũ: Yên Liêu Thượng, Yên Liêu Hạ, Bồ Vi. Năm 1956, xã Khánh Thịnh được tách ra làm 3 xã: Khánh Thịnh, Yên Thạch lấy tên là Khánh Dương, Đồng Phú lấy tên là Khánh Thượng. Di tích thuộc Khánh Thịnh. Năm 1994, tái lập huyện Yên Khánh và huyện Yên Mô, di tích thuộc Yên Liêu Thượng, xã Khánh Thịnh, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình cho đến nay.
	Từ trung tâm thành phố Ninh Bình, du khách tới chiêm bái chùa Cổ Linh có thể đi theo 2 tuyến: đường bộ và đường thủy. Theo quốc lộ 1A (Ninh Bình-Thanh Hóa) khoảng 8 km tới ngã ba Bình Sơn, du khách rẽ trái vào đường 59 khoảng 8km sẽ tới thị trấn Yên Thịnh. Từ ngã tư thị trấn rẽ trái vào đường liên xã Khánh Thịnh - Khánh Dương 1km rồi tiếp tục rẽ phải vào đường liên thôn 1km là tới di tích. Ngoài ra, khách có thể đi thuyền từ bến Non Nước dọc theo sông Vân 6km đến ngã ba Cầu Yên, rẽ trái vào sông Vạc khoảng 9km.
	Về cơ bản, chùa Cổ Linh là công trình kiến trúc thờ Phật, một trong những tôn giáo có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống tâm linh của người Việt. Thông qua các pho tượng, họ muốn gửi gắm những ước vọng lên các đấng thần linh tối thượng để xin phúc lành cho gia đình, cộng đồng xã hội và quốc gia. Theo nội dung văn bia, chùa Cổ Linh có từ xa xưa, đến giữa thời hậu Lê thì rước sang thờ chung ở chùa Phượng Ban. Sau đó được bắt đầu xây dựng lại vào năm Tự Đức thứ 35 (1882) với sự giúp đỡ của thiền sư Thanh Thiệu là người ấp này trụ trì tại chùa Bích Động (Hoa Lư) có công mở mang xây dựng chùa Cổ Linh. Cụ Hoằng Quỳnh Thuật pháp húy Thanh Côn là người có công xây dựng riêng chùa Cổ Linh. Sau đó, cụ Lê Công hiệu Từ Diễn thiền sư là người của bản thôn đã xuất gia tu đạo cúng tiến xây dựng 3 gian Tam Bảo, 5 gian Tiền Đường. Trải qua 100 năm tồn tại, nhiều nhà sư đã thay nhau trụ trì tại chùa. Các nhà sư đều tâm huyết trùng tu, xây dựng chùa ngày càng đẹp.
	Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ cứu nước, chùa Cổ Linh đã đóng góp nhiều công sức vào thắng lợi chung của dân tộc. Ngày 1/5/1950, ông Trịnh Văn Xước và ông Dương Quang Hào đã cắm cờ Việt Minh trên ngọn cây muỗm trước cửa chùa để phát động kháng chiến chống Pháp trên toàn xã. Nhiều thế hệ nhà sư đã trở thành chiến sĩ. Sư bác Thích Thanh Kiều đã hi sinh trong kháng chiến chống Pháp, ở giai đoạn khốc liệt nhất với hình ảnh ''cả nước ra quân, toàn dân ra trận''. Sư tiểu Thích Thanh Thanh đã tình nguyện cởi áo cà sa, xin ra trận để chiến đấu và đã anh dũng hi sinh tại chiến trường. Tiếp sau đó, những ngày giao quân lên đường chiến đấu diễn ra sôi nổi ở khắp các thôn xóm, làng xã. Hàng trăm người con của quê hương đã lên đường ra mặt trận. Để động viên tinh thần cho các chiến sĩ, chùa Cổ Linh đã đóng góp lương thực, thực phẩm, đồng thời là nơi nuôi quân trước ngày nhập ngũ. Chùa cũng tham gia tích cực vào phong trào chăm sóc thương bệnh binh. Ngày 10/4/1970, thiếu tướng Tô Kí, chính ủy bộ tư lệnh quân khu 3 có thư cảm ơn, trong thư đồng chí viết: "trong sự nghiệp chống Mĩ cứu nước của dân tộc ta, chùa Cổ Linh đã giúp đỡ tích cực cho thương bệnh binh góp phần cùng quân khu hoàn thành nhiệm vụ nuôi dưỡng anh em thương bệnh binh. Bộ tư lệnh quân khu nhiệt liệt cảm ơn và hoan nghênh"
	Vinh dự cho chùa Cổ Linh, thượng tọa Thích Thanh Lũy được hội đồng chính phủ tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng nhì "đã có thành tích trong cuộc khang chiến lâu dài và anh dũng của dân tộc", ủy ban TWMTTQ tặng Huy chương cùng nhiều bằng khen vì sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân. Sư bác Thích Thanh Côi sau khi hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc được về hưu an lạc tuổi già với quân hàm Thượng tá. Sư thầy Dương Thị Thuấn được chủ tịch nước tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng ''đã có con độc nhất hi sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc''. Có thể thấy, hiếm có ngôi chùa nào mà số lượng các nhà sư gác nghiệp tu hành để tham gia chiến đấu, bảo vệ Tổ quốc nhiều như chùa Cổ Linh. Đó là những tấm gương của những con người đức cao, đạo trọng, sẵn sàng hi sinh vì tổ quốc với tinh thần yêu nước nồng nàn "cảm tử cho Tổ quốc quyết sinh”.
	 Chùa Cổ Linh về cơ bản là công tình kiền trúc thờ phật. Ngoài ra trong khuôn viên của chùa còn có nhiều hạng mục công tình liên quan như: tháp - nơi đặt xá lỵ của các nhà sư, nhà Tổ-nơi thờ cúng các vị sư đã từng trụ trì ở đây và các vị tổ Tây, nhà thờ Địa Tạng, nhà khách. Tất cả các công trình này có kiến trúc khác nhau nhưng trong tổng thể lại kết hợp với nhau rất hài hòa để tạo cho chùa có một cảnh quan đẹp nhưng vẫn trang trọng và uy nghiêm. Theo truyền lại, trước đây, phía trước nhà thờ Tổ có đền Tam Thánh rất linh thiêng. Tả-hữu đền có bia hạ mã, nếu ai đi qua không xuống ngựa, xe thì sẽ gặp điều không may mắn. Dân làng thấy ngài hiển linh, xác định đây là con đường giao thông chính của làng, nên nhân dân đã rước Ngài ra khuôn viên chùa Phượng Ban ngày nay để phụng sự.
	Ngày nay, chùa Cổ Linh tọa lạc trên khu đất khá rộng, thoáng đãng. Chùa nằm liền kề với khu vực dân cư trong thôn. Tổng diện tích sử dụng là 8028 mét vuông, trong đó có 1740 mét vuông để xây dựng. Chùa quay về hướng tây - một trong hai hướng cơ bản của di tích người Việt, với quan niệm hướng tây hợp với âm dương đối đãi nên Phật tọa yên vị. Cũng xuất phát từ thuật phong thủy trong xây dựng, phía trước cửa chùa có hồ nước, diện tích khoảng 30 mét vuông. Giữa hồ đắp rồng vàng, đầu rồng đặt pho tượng Phật Quan Thế Âm Bồ Tát cao 2,4m. Tượng được tạc trong tý thế đứng, khuôn mặt đầy đặn, phúc hậu, các lớp áo buông thõng mềm mại, tay trái cầm bình nước Cam Lồ, tay phải chỉ thiên. Trong không gian chùa có nhiều cây cổ thụ tạo thế đẹp như: cây đại, cây muỗm ... hàng trăm năm tuổi. 
	Vườn chùa dựng năm cây tháp, công trình được xây theo hình vuông, cao khoảng 5m, tháp 3 tầng. Đế tháp vững chắc rồi nhỏ dần lên nóc với mái mui luyện. Trong tháp đặt xá lỵ của các vị Tổ chùa. 
	Từ vườn qua một khoảng sân nhỏ có chiều dài 15m, chiều rộng 3m là tới kiến trúc nội tự. Bố cục gồm 2 tòa: Tiền Đường và Tam Bảo.
	Tiền Đường có tất cả 5 gian, mái lợp ngói nam. Trung tâm nóc mái đắp hình cuốn thư đề ba chữ hán "Cổ Linh Tự", hai bên nóc trang trí đường triện. Hệ thống mái được liên kết bởi bộ vì ván mê với đường nét chạm trổ hoa lá tinh xảo. Mười tám cột gỗ chịu lực được đặt trên các chân đá tảng cổ bồng. Từ trái sang, trên các bàn thờ, ngoài bài trí đồ thờ, các ban đều đặt tượng. Ban thứ nhất đặt tượng Đức Ông, tượng được đặt trong khám thờ sơn son thếp vàng, trang trí đề tài: rồng cuộn, lá thiêng... Ban thờ thứ hai đặt tượng Hộ Pháp Trừng Ác. Tượng cao to, tay cầm vũ khí với dáng tướng võ mạnh mẽ, mắt sáng quắc. Tượng làm nhiệm vụ răn con người bỏ ác. Ban thờ thứ ba đặt bộ Di Đà Tam Tôn. Tượng Phật A Di Đà ở giữa, hai vị Bồ Tát tạc trong tư thế gần giống nhau đứng hai bên. Hai vị Bồ Tát này luôn tạo thành cặp đôi đi theo Phật A Di Đà tiếp dẫn chúng sinh về cõi Tây phương cực lạc. Ban thứ tư đặt tượng Hộ Pháp Khuyến Thiện, tay cầm viên ngọc, khuyên mọi người làm điều thiện. Ban thờ thứ năm đặt tượng Thánh Tăng (Thánh hiền), tạo không gian thâm nghiêm, đại diện cho hàng tăng chúng đức cao đạo trọng để truyền kinh pháp của đức phật tới chúng sinh.
	Kéo dài thêm về phía sau là ba gian tòa Tam Bảo. Các cột gỗ được trang trí: lá hóa long, phượng, hổ, ... Các pho tượng đều được thếp vàng. Gian thứ nhất để bài trí đồ thờ, hai gian còn lại bày bức đại tự và tháp đặt trên đài sen. Trên ban thờ đặt tượng Cửu Long Thích Ca Sơ Sinh - một toàn Cửu Long đẹp, đạt ở trình độ kĩ thuật cao. Trên địa bàn tỉnh Ninh Bình hiện nay, hiếm thấy di tích nào có tòa Cửu Long đẹp như ở chùa Cổ Linh. Phía trước của tòa Cửu Long là hai pho tượng trong tư thế Thiên tử thiết triều, đội mũ bình thiên. Tượng Phạm Thiên - Đế Thích, tượng Dược Sư Lưu Li Quang Phật, tượng Quan Âm Nam Hải, bộ tượng Di Đà Tam Tôn, tượng Phật A Di Đà, tượng Quan Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát,...
	Phía sau chùa còn có nhà Tổ, mọi phía được đặt các tượng Tổ. Mỗi pho tượng một vẻ với phong cách phác họa khác nhau nhưng nghệ nhân đã mang lại cho tín đồ phật tử những hình ảnh tương đối hoàn thiện về các vị Tổ chùa. Bên nhà thờ Tổ là nhà thờ Địa Tạng, kiến trúc năm gian, mái lợp ngói nam. Địa Tạng được Phật Thích Ca giao cho nhiệm vụ giáo hóa chúng sinh. Ngài nguyện chưa thành Phật khi chưa cứu độ hết chúng sinh ở miền âm phủ. Tượng được tạc trong trang phục áo cà sa, đội mũ tỳ lư. Nhìn chung, ngoài hệ thống đồ thờ phong phú và tượng thờ đa dạng, chùa Cổ Linh còn là sự kết hợp giữa nhiều bộ phận kiến trúc, nhưng chùa vẫn lưu giữ được phong cách truyền thống từ cách bài trí đồ thờ đến đặc trưng kiến trúc, mô tuýp trang trí, vật liệu xây dựng khiên chùa như hòa hợp với phong cảnh thôn dã trong vùng. Tất cả là những gợi mở đầy thú vị để du khách chiêm nghiệm mỗi khi tham quan chùa. Căn cứ vào kiến trúc, đồ thờ và những sự kiện, nhân vật lịch sử liên quan đến chùa Cổ Linh, di tích được xếp vào loại hình kiến trúc nghệ thuật và di tích lịch sử.
	Hàng ngày, chùa thường xuyên mở cửa để đón các tín đồ, phật tử và du khách về chùa hành hương, chiêm bái. Những dịp lễ sóc vọng (mùng một, rằm) dân làng thường biện lễ lên chùa cúng Phật như: trầu cau, rượu, oản, chuối, xôi,...
	Hàng năm, chùa có những ngày lệ sau:
	 - Lễ Thượng Nguyên
	 - Lễ Trung Nguyên
	 - Ngày Phật đản (8/4 ÂL)
	 - Ngày giỗ Tổ chùa (23/8 ÂL)
	Vào những ngày lệ, chùa làm cơm chay mời dân làng. Tối đến tổ chức sinh hoạt văn nghệ, các loại hình văn nghệ được biểu diễn chủ yếu là múa, hát thể loại dân gian, chèo, dân ca,...
	Chùa là một công trình kiến trúc thời Nguyễn, mang phong cách kiến trúc dân tộc truyền thống. Chùa còn bảo quản được nhiều mảng khối chạm khắc đẹp, góp phần vào việc nghiên cứu nghệ thuật kiến trúc ở tỉnh Ninh Bình. Đồng thời góp tiếng nói vào việc bảo tồn, trùng tu các kiến trúc truyền thống, để công việc này thực sự có cơ sở khoa học.
	Chùa còn lưu giữ được nhiều hiện vật quý: hệ thống tượng, đồ thờ, văn bia,... Đó là những nguồn sử liệu quan trọng giúp ta nghiên cứu về chùa Cổ Linh, về diễn trình phát triển của nghệ thuật tạo hình Việt với bước đi của lịch sử xã hội, đặc biệt là lịch sử văn hóa của người Việt
	Di tích là nơi tiếp diễn các sinh hoạt văn hóa cộng đồng về tín ngưỡng, tôn giáo, luôn gắn bó với đời sống cộng đồng. Nó đáp ứng được nhu cầu tâm linh của con người trong xã hội cổ truyền cũng như hiện đại
	Chùa cung cấp được những tư liệu và nhận thức cần thiết cho những nhà nghiên cứu và những người yêu thích nghệ thuật tạo hình dân tộc cổ truyền trên phương diện: niên đại, mĩ thuật và ý nghĩa.
	Cửa phật là nơi hướng con người đến lẽ huyền vị, đến cái chân, thiện, mĩ. Qua đó sẽ tạo một cơ sở nhìn nhận khách quan về đời sống tôn giáo, tín ngưỡng của người Việt trong văn hóa Việt Nam. Góp phần cho công tác giáo dục truyền thống, chống mê tín dị đoan.
 Ban quản lí Di tích và Danh thắng tỉnh Ninh Bình lập hồ sơ khoa học đề nghị Hội đồng khoa học xét duyệt trình UBND tỉnh Ninh Bình ra quyết định xếp hạng di tích chùa Cổ Linh, thôn Yên Liêu Thượng, xã Khánh Thịnh, huyện Yên Mô là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. 
Thư mục tham khảo
1. Hoạt động trải nghiệm trong dạy học ngữ văn thông qua các bài học cụ thể”, Lưu Công Lương, Trường THPT Chuyên Lê Quý Đôn - Ninh Thuận, 
2. Các dạng thức của hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong dạy học Ngữ văn THPT, Ths Lê Khánh Tùng, Trường ĐHSP Huế, 
https://www.khoanguvandhsphue.org/chi_tiet_hoat_dong.aspx?
3. Tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo, biện pháp bồi dưỡng năng lực cho học sinh trong nhà trường THPT, Ths Trần Thị Hạnh Phương, Trường ĐHSP Hà Nội 2, 
4. Thiết kế và tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo môn Ngữ văn, https://giaoducthoidai.vn/trao-doi/thiet-ke-va-to-chuc-hoat-dong-trai-nghiem-sang-tao-mon-ngu-van-3919602-v.html
5. Một số hình thức dạy học trải nghiệm môn Ngữ văn THPT, Mai Thư (GV Trường THPT Quỳnh Lưu 2 - Nghệ An), https://giaoducthoidai.vn/trao-doi/mot-so-hinh-thuc-day-hoc-trai-nghiem-mon-ngu-van-thpt-4030045-b.html
6. Dạy học văn bản "Vợ chồng A phủ" bằng hoạt động trải nghiệm sáng tạo, Trần Thị Thức, GV Trường THPT Nguyễn Trung Thiên, 
7. Một số tài liệu khác về chủ đề thuyết minh của đồng nghiệp.

File đính kèm:

  • docYMA HOẠT ĐỘNG TRẢI NGHIỆM SÁNG TẠO TRONG VĂN THUYẾT MINH VỚI CHỦ ĐỀ GIỚI THIỆU VỀ ĐỊA PHƯƠNG YÊN MÔ.doc
Sáng Kiến Liên Quan