Sáng kiến kinh nghiệm Giảng dạy ca dao, dân ca trong chương trình Ngữ văn Lớp 7

Có thể nói vấn đề dạy học tác phẩm văn học thể đặc trưng thể loại cho đến nay vẫn chưa hề cũ vì dạy tác phẩm văn chương theo đặc trưng thể loại là một trong những yêu cầu cần thiết và quan trọng. Nó khẳng định được cách đi đúng hướng trong việc cải tiến, đổi mới phương pháp nội dung dạy- học Ngữ văn ở THCS theo chương trình SGK mới hiện nay.

 Như chúng ta đã biết SGK Ngữ văn mới hiện nay được biên soạn theo chương trình tích hợp, lấy các kiểu văn bản làm nơi gắn bó ba phân môn (Văn- Tiếng Việt- Tập làm văn), vì thế các văn bản được lựa chọn phải vừa tiêu biểu cho các thể loại ở các thời kì lịch sử văn học, vừa phải đáp ứng tốt cho việc dạy các kiểu văn bản trong Tiếng Việt và Tập làm văn. Vì vậy SGK Ngữ văn 7 hiện nay có cấu trúc theo kiểu văn bản, lấy các kiểu văn bản làm trục đồng quy. ở chương trình Ngữ văn THCS các em được học 6 kiểu văn bản: Tự sự, miêu tả, biểu cảm, lập luận, thuyết minh và điều hành. Sáu kiểu văn bản trên được phân học thành hai vòng ( vòng 1: lớp 6-7; vòng 2: lớp 8-9) theo nguyên tắc đồng tâm có nâng cao. ở lớp 7 các em học ba kiểu văn bản: biểu cảm, lập luận và điều hành. Trong đó học kì I chỉ tập trung một kiểu văn bản là biểu cảm. Chính vì vậy mà SGK Ngữ văn 7 đã đưa những tác phẩm trữ tình dân gian ( cụ thể là ca dao- dân ca) nhằm minh hoạ cụ thể, sinh động cho kiểu văn bản biểu cảm giúp các em dễ dàng tiếp nhận ( đọc, hiểu, cảm thụ, bình giá về ca dao-dân ca một thể loại trữ tình dân gian).

 

doc19 trang | Chia sẻ: sangkien | Lượt xem: 5397 | Lượt tải: 3Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Giảng dạy ca dao, dân ca trong chương trình Ngữ văn Lớp 7", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hai vế:
 - ở đâu năm cửa nàng ơi
 Sông nào sáu khúc nước chảy xuôi một dòng?
 Sông nào bên đục, bên trong?
 Núi nào thắt cổ bồng mà có thánh sinh?
 Đền nào thiêng nhất sứ Thanh
 ở đâu mà lại có thành tiên xây?
 - Thành Hà Nội năm cửa nàng ơi
 Sông lục đầu sáu khúc nước chảy xuôi một dòng.
 Nước sông Thương bên đục bên trong,
 Núi Đức Thánh Tản thắt cổ bồng lại có thánh sinh
 Đền Sòng thiêng nhất xứ Thanh
	 ở trên tỉnh Lạng có thành tiên xây."
 - Phương thức trần thuật (hay kể chuyện trữ tình, khác với trần thuật trong các loại tự sự).
 Ví dụ: Con cò chết rũ trên cây,
 Cò con mở lịch xem ngày làm ma.
 Cà cuống uống rượu la đà,
 Chim ri ríu rít bò ra lấy phần.
 Chào mào thì đánh trống quân,
 Chim chích cởi trần, vác mõ đi giao."
 - Phương thức miêu tả (miêu tả theo cảm hứng trữ tình, khác với miêu tả khách quan trong các thể loại tự sự).
 Ví dụ: Đường vô xứ Huế quanh quanh,
 Non xanh nước biếc như tranh hoạ đồ.
 Ai vô xứ Huế thì vô 
 - Ngoài ra còn có cả ba phương thức kép là (trần thuật kết hợp với đối thọai; trần thuật kết hợp với miêu tả; kết hợp cả ba phương thức)
 - Do nhu cầu truyên miệng và nhu cầu ứng tác, nhân dân thường sử dụng những khuân, dạng có sẵn, tạo nên những đơn vị tác phẩm hoặc dị bản hao hao như nhau.
 Ví dụ: "Thân em như"  ("hạt mưa sa", "hạt mưa rào", "tấm lụa đào", "trái bần trôi" )
 d, Thời gian và không gian trong ca dao
 * Thời gian:
 - Thời gian trong ca dao vừa là thời gian thực tại khách quan vừa là thời gian của tưởng tượng, hư cấu mang tính chất chủ quan của tác giả.
 - Ca dao có rất nhiều câu mở đầu bằng hai tiếng "chiều chiều": "Chiều chiều xách giỏ hái rau", "Chiều chiều ra đứng bờ sông","Chiều chiều lại nhớ chiều chiều"  "Chiều chiều" có nghĩa là chiều nào cũng vậy, sự việc diễn ra lặp đi lặp lại.
 - Ngoài ra thời gian trong ca dao còn sử dụng hàng loạt những trạng ngữ (hay cụm từ) chỉ thời gian như : "bây giờ"; "tối qua"; "đêm qua"  thì ai cũng hiểu là người nói đang ở thời điểm hiện tại để nhớ lại và nhắc lại chuyện vừa xảy ra chưa lâu. Nhìn chung thời gian trong ca dao trữ tình là thời gian nghệ thuật mang tính tượng trưng, phiếm chỉ (hay phiếm định). Vì thế nó phù hợp với nhiều người, ở nhiều địa điểm và thời điểm khác nhau.
 * Không gian
 - Không gian trong ca dao cũng vừa là không gian thực tại khách quan, vừa là không gian trong trí tưởng tượng mang tính chất tượng trưng của tác giả.
 - Khi không gian thuộc về "đối tượng phản ánh, miêu tả thì đó là không gian thực tại được tái hiện trong ca dao". Ví dụ: xứ Huế, xứ Thanh, sông Lục Đầu, sông Thương  và những nơi khác trong ca dao, nhất là ca dao về phong cảnh và sản vật các địa phương.
 Ví dụ: Rủ nhau xem cảnh Kiếm Hồ
 Xem cầu Thê Húc, xem chùa Ngọc Sơn.
 Cũng giống như thời gian, khi không gian được nói đến như một yếu tố góp phần tạo nên hoàn cảnh, trường hợp để tác giả bộc lộ cảm nghĩ (trực tiếp hoặc gián tiếp) thì đó là không gian mang tính chất tượng trưng do tác giả tưởng tượng, hư cấu hoặc tái tạo theo cảm xúc thẩm mĩ của mình. Ví dụ những hình ảnh về không gian, địa điểm mang tính chất tượng trưng, phiếm chỉ, thường xuyên xuất hiện trong ca dao trữ tình ( "cánh đồng", "thác", "ghềnh", "bờ ao", "mái nhà", "ngõ sau" ). Ngay cả những địa điểm có thực khi vào ca dao trữ tình cũng mang tính chất tượng trưng.
 d, Thủ pháp nghệ thuật chủ yếu
 Những bài ca dao được đưa vào SGK Ngữ văn 7 có nhiều thủ pháp nghệ thuật khác nhau (mang nét đặc trưng của ca dao truyền thống). ở đây tôi chỉ đề cập đến những thủ pháp chủ yếu.
 - So sánh là thủ pháp nghệ thuật được dùng thường xuyên, phổ biến nhất, bao gồm so sánh trực tiếp (tỉ dụ), so sánh gián tiếp (ẩn dụ). Tỉ dụ là so sánh trực tiếp, thường có những từ chỉ quan hệ so sánh: như, như là, như thể đặt giữa hai vế (đối tượng và phương tiện so sánh).
 Ví dụ: - Đường vô xứ Huế quanh quanh
 Non xanh nước biếc như tranh hoạ đồ.
 - Thân em như chẽn lúa đòng đòng
 Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai.
 - Yêu nhau như thể chân tay
 Anh em hoà thuận , hai thân vui vầy.
 - Công cha như núi ngất trời
 Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển đông.
 - Còn ở ẩn dụ (so sánh ngầm) thì không những không có quan hệ từ so sánh mà đối tượng so sánh cũng được ẩn đi, chỉ còn một vế là phương tiện so sánh (ở đây đối tượng và phương tiện so sánh hoà nhập làm một). Do vậy mà hình thức ẩn dụ hàm súc hơn tỉ dụ.
 Ví dụ bài ca dao sau là tập hợp bốn hình ảnh ẩn dụ, mỗi hình ảnh ám chỉ một cảnh ngộ đáng thương của người lao động:
 Thương thay thân phận con tằm,
 Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ.
 Thương thay lũ kiến tí ti,
 Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi.
 Thương thay hạc lánh đường mây,
 Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi.
 Thương thay con cuốc giữa trời,
 Dầu kêu ra máu có người nào nghe.
 Đặc biệt ẩn dụ gắn rất chặt với nghệ thuật nhân hoá, dùng thế giới loài vật để nói thế giới loài người.
 Ví dụ bài ca dao dưới đây mỗi con vật tượng trưng cho một loại người, hạng người trong xã hội xưa:
 Con cò chết rũ trên cây,
 Cò con mở lịch xem ngày làm ma.
 Cà cuống uống rượu la đà,
 Chim ri ríu rít bò ra lấy phần.
 Chào mào thì đánh trống quân,
 Chim chích cơỉ trần vác mõ đi giao.
 - Biện pháp nghệ thuật đối xứng (đối ý, đối từ):
 Ví dụ: Số cô chẳng giầu thì nghèo
 Ngày ba mươi tết thịt treo trong nhà.
 Số cô có mẹ có cha
 Mẹ cô đàn bà, cha cô đàn ông.
 Số cô có vợ có chồng
 Sinh con đầu lòng, chẳng gái thì trai.
 - Nghệ thuật trùng điệp (bao gồm cả điệp ý, điệp từ).
 Ví dụ: Cái cò lặn lội bờ ao
 Hỡi cô yếm đào lấy chú tôi chăng.
 Chú tôi hay tửu hay tăm
 Hay nước chè đặc, hay nằm ngủ trưa.
 Ngày thì ước những ngày mưa
 Đêm thì ước những đêm thừa trống canh.
 - Nghệ thuật phóng đại được sử dụng hầu hết ở những bài ca dao dùng để châm biếm:
 Ví dụ: Cậu cai nón dấu lông gà,
 Ngón tay đeo nhẫn gọi là cậu cai.
 Ba năm được một chuyến sai,
 áo ngắn đi mượn, quần dài đi thuê.
 Ngoài ra còn có một số biện pháp khác nữa.
 4.4. Phương thức diễn xướng
 Phương thức diễn xướng gắn liền với các hình thức nghệ thuật của dân ca (hát ru, hát, hò đối đáp )
II- phương pháp dạy ca dao
 1. Giới thiệu bài
 Mặc dù chỉ chiếm vài ba phút nhưng đây là khâu quan trọng giáo viên không nên bỏ qua. Trong giáo án giáo viên nên thể hiện cả dự kiến vào bài, khởi động tạo tình huống gây hứng thú học tập cho học sinh ngay từ phút đầu, có thể bằng câu hỏi tích hợp dọc. Ví dụ khi dạy văn bản : Ca dao - dân ca
 Những câu hát về tình cảm gia đình
 Đây là tiết đầu tiên học sinh tìm hiểu khái niệm ca dao - dân ca, nhưng những câu, những bài ca dao các em đã được làm quen, được nghe từ nhỏ, rồi những năm tiểu học vì vậy tôi có thể vào bài như sau:
 Ngay từ khi cất tiếng khóc chào đời, được nằm trên chiếc nôi tre chúng ta đã được nghe tiếng ru ầu ơ của bà, của mẹ bằng những câu ca dao - dân ca, nó như dòng suối ngọt ngào, vỗ về, an ủi tâm hồn mỗi người. khúc hát tâm tình của quê hương đã thấm sâu vào trái tim mỗi người dân Việt Nam mà năm tháng có qua đi cũng không thể phai mờ.
 Hỏi: Vậy bây giờ em nào có thể đọc cho cả lớp nghe một vài câu ca dao mà em thuộc hoặc đã được học ở tiểu học.
 - Sau đó giáo viên có thể tiến hành hoạt động liên môn khi sử dụng các làn điệu dân ca để gây tình huống.
 Hỏi: Trong môn Âm nhạc lớp 6 và lớp 7 các em đã được học một số làn điệu dân ca. Vậy một em hãy nêu rõ tên làn điệu dân ca đó. Nếu có thể em hát một vài câu cho các bạn nghe. (Đó là bài "Đi cấy" dân ca Thanh Hoá - lớp 6 và bài "Lí cây đa" dân ca quan họ Bắc Ninh - lớp 7).
 Chú ý: Hoạt động liên môn phải hết sức thận trọng, đúng thời điểm với một liều lượng cho phép.
 2. Phần dạy bài mới
 a, Đọc - chú thích
 * Đọc
 Về phương pháp dạy tác phẩm trữ tình nói chung và ca dao nói riêng việc đọc là khâu khá quan trọng: phải đọc cho "vang nhạc sáng hình". Tác phẩm "chỉ được bắt đầu mở ra cho bạn đọc khi nó vang lên trong tâm hồn như một sự độc thoại bên trong" (Marantxman). Vì vậy ở thể loại trữ tình dân gian là ca dao phương pháp "đọc sáng tạo", và biện pháp "đọc diễn cảm" có một vị trí đặc biệt quan trọng gần như chủ công. Đối với ca dao giáo viên nên cho học sinh đọc được từ mức thấp nhất cho đến mức cao.
 - Mức thấp nhất là đọc đúng, tròn vành, rõ chữ, đúng chính âm, chính tả.
 - Mức cao hơn là đọc diễn cảm, đọc diễn tả cảm xúc.
 - Mức cao nhất của đọc là đọc nghệ thuật (đọc hay). Đọc diễn cảm phải vươn tới tiệm cận với đọc nghệ thuật. Nhưng trong giờ dạy ca dao - dân ca thì đọc nghệ thuật không bao giờ thay thế cho đọc diễn cảm. Nếu có sử dụng đọc nghệ thuật (ngâm thơ, hát ru ) chỉ với một liều lượng cho phép.
 - Đối với trình độ học sinh lớp 7 giáo viên chú ý rèn cho các em kĩ năng đọc diễn cảm. Thông qua việc đọc còn biết được trình độ học sinh.
 - Trong chương trình SGK Ngữ văn 7 những người biên soạn sách đã xác định rõ "thể" và chia nhóm của các bài ca dao vừa giúp giáo viên và học sinh xác định được trọng tâm của bài vừa thuận tiện cho việc xác định cách đọc. Tuy nhiên những bài ca dao ở cùng một đề tài thì tình cảm được thể hiện ở mỗi bài không hoàn toàn giống nhau chính vì vậy mà giáo viên cũng cần phải xác định được điều này để hướng dẫn học sinh đọc cho đúng giọng.
 * Chú thích
 Chỉ giảng những chú thích sao, những chú thích liên quan đến nội dung cơ bản của văn bản. Những chú thích khác giáo viên tìm cách kiểm tra học sinh trong quá trình tìm hiểu, phân tích văn bản.
 b, Phần phân tích
 b.1. Xây dựng hệ thống câu hỏi theo đặc trưng thể loại
 Đặc trưng trong phân môn Văn là đi từ phân tích đến giảng bình. Giáo viên phải xác định được hệ thống câu hỏi phù hợp với đặc trưng thể loại. Như chúng ta đã biết phần lời của những câu hát dân gian thiên về tình cảm và biểu hiện lòng người, thường đan xen ở các cách thể hiện: phú, tỉ hoặc hứng. Nó sống được đến ngày nay là nhờ dân ca. Nhưng khi đưa vào nhà trường đã được văn bản hoá và vì vậy nó cũng được nghiên cứu như một tác phẩm nghệ thuật. Nhưng trong quá trình dạy học nó cũng cần được làm sống dậy môi trường dân gian ở dạng tinh, đơn giản, đủ để kích thích cảm thụ. Vì ca dao thuộc thể loại trữ tình dân gian cho nên trong quá trình phân tích giáo viên cần tăng cường câu hỏi cảm xúc, hình dung tưởng tượng và các câu hỏi về chi tiết nghệ thuật. Tạo điều kiện cho các em chóng thuộc và tiếp nhận những cách thể hiện độc đáo của ca dao. Ca dao thường nghiêng về vẻ đẹp trang trọng trong đời thường con người. Câu hỏi cảm xúc nghệ thuật cần cố gắng huy động với một khối lượng đáng kể.
 + Hệ thống câu hỏi cảm xúc
 Là hệ thống câu hỏi tìm ra phản ứng trực giác của người đọc bị tác động bởi nội dung và hình thức của tác phẩm ở mức độ ấn tượng ban đầu. Nó đi sâu vào cảm xúc thẩm mĩ. Trả lời hệ thống câu hỏi này, người đọc xác định được cảm xúc của mình khi đọc xong tác phẩm, thể hiện ấn tượng ban đầu của mình trước hình thức nghệ thuật hay nội dung trực tiếp có tính chất vật chất của tác phẩm. Ngay trong hệ thống nhỏ thứ nhất của loại câu hỏi cảm xúc đó cũng luôn xét đến sự chi phối của thể loại và lứa tuổi để có những câu hỏi vừa sức và không bị "nhàm sáo", luôn luôn bám sát văn bản. và rõ ràng, để có được câu hỏi thoả mãn yêu cầu đó người dạy cũng như người đọc không thể hời hợt với tác phẩm ngay từ phút đầu.
 (1). Câu hỏi cảm xúc vật chất
 Loại câu hỏi này thường được sử dụng trong các văn bản thuộc thể loại tự sự.
 (2). Câu hỏi cảm xúc nghệ thuật
 Là loại câu hỏi hướng về những rung động ban đầu của học sinh bởi tác động của những hình thức nghệ thuật của tác phẩm, ngữ điệu nhạc tính trong thơ.
 Ví dụ: : Hỏi: Kết cấu câu tám "Bao nhiêu nuộc lạt nhớ ông bà bấy nhiêu" có gì đáng chú ý?
 Học sinh: Có kết cấu "Bao nhiêu  bấy nhiêu" là cách nói tăng cấp thường gặp trong ca dao. 
 Hỏi: Qua nhạc điệu, vần điệu của bài ca "Công cha như núi ngất trời" đã để lại cho em cảm giác gì?
 Học sinh: Bài ca mang âm điệu ngọt ngào, du dương làm cho em cảm thấy lời nhắc nhở nhẹ nhàng mà sâu lắng.
 Hỏi: Hình thức thể loại của bài ca "ở đâu năm cửa nàng ơi" có gì đặc biệt?
 Học sinh: Đây là thể loại đối đáp thường gặp trong ca dao trữ tình giao duyên cổ truyền Việt Nam.
 Hỏi: Các điệp ngữ, đảo ngữ : Đứng bên ni đồng, đứng bên tê đồng, mênh mông bát ngát, bát ngát mênh mông gợi cho người đọc, người nghe cảm giác và ấn tượng gì?
 Học sinh: Gợi cho chúng ta như đang đứng trước một cánh đồng rộng, nhìn hút tầm mắt, từ bên nào nhìn ra đều thấy sự rộng lớn của cánh đồng lúa đang thì con gái.
 + Hệ thống câu hỏi hình dung tưởng tượng
 Sự tưởng tượng càng phong phú và mãnh liệt thì cảm xúc càng phát triển, khi nghiên cớu về vấn đề này cả ĐUĐETXKI và LÊVINÔP đều chop rằng: "Các hình ảnh tưởng tượng của các em khác với biểu tương của trí nhớ có tính chất cá biệt rõ rệt, hoặc có những dấu hiệu riêng biệt phong phú, hoặc ngược lại chỉ phản ánh cái chung không chỉ có chi tiết hoá một cách rõ ràng và xác định. Giai đoạn khó nhất của tưởng tượng là từ tái tạo đến tổng hợp các dấu hiệu khác nhau thành một hình ảnh toàn vẹn: sự tổng hợp này sẽ dễ dàng hơn nếu nó dựa trên tính chất trực quan của tri giác, đặc biệt để nắm được hình tượng nghệ thuật, học sinh cần phải biết kết hợp việc sử dụng một cách hợp lí tài liệu trực quan với việc độc lập dựa vào mô tả để tìm được hình tượng  Tưởng tượng, tái tạo, tham gia vào tất cả các hình thức tái tạo của học sinh. Hoạt động sáng tạo ở lứa tuổi nàycó rất nhiều vẻ. Và nhất là "phản ứng" với cái đẹp là cái mà cuộc sống biểu tượng hay là cái làm cho ta nhớ lại về cuộc sống. Đây là thời điểm để đem lại cho người đọc khoái cảm thẩm mĩ xen lẫn cảm xúc của liên tưởng nhất là khi tác động đến cái đẹp đa dạng của hình tượng.
 Hệ thống câu hỏi này thiên về sự hình dung của người đọc. Những câu hỏi giúp học sinh xác nhận sự hình dung của mình dưới tác động của hình tượng văn học. Hệ thống này gồm hai loại tái hiện và tái tạo.
 (1). Hệ thống câu hỏi hình dung tưởng tượng tái hiện
 Hệ thống câu hỏi này đòi hỏi thầy và trò tự xác định bức tranh nghệ thuật trong tâm hồn mình khi đọc văn bản hoặc khêu gợi trí tưởng tượng trong và sau khi đọc.
 Ví dụ: Khi dạy đến bài ca "Chiều chiều ra đứng ngõ sau" giáo viên có thể đặt câu hỏi.
 Hỏi: Em hình dung như thế nào về bóng dáng người phụ nữ trong bài ca này? Hãy tả cho các bạn nghe. 
 Học sinh có thể trả lời theo sự tưởng tượng của cá nhân mình: Đó là bóng dáng người phụ nữ cô đơn, đứng nơi ngõ sau trong buổi chiều hưu quạnh, đứng như tạc tượng vào không gian, cặp mắt đăm đắm ngóng trông về quê mẹ.
 Chú ý: Những hình tượng có nội dung phong phú, có màu sắc xúc cảm là chỗ dựa tốt để nắm vững bài học  Vai trò của giáo viên trong việc giáo dục năng lượng tưởng tượng của học sinh là rất quan trọng, khéo léo dùng các biện pháp và phương pháp kích thích học sinh tạo nên các hình ảnh của những cái chưa bao giờ thấy "tránh chủ quan và bịa đặt".
 (2). Hệ thống câu hỏi hình dung tưởng tượng tái tạo
 Những hình tượng của tưởng tượng tái tạo có ưu thế hơn những hình tượng của kí ức vì học sinh hoạt động tích cực hơn, mặc dù có điều khiển các hình tượng này để cho chúng phản ánh hiện thực và đặc biệt là trong văn học nghệ thuật thậm trí phong phú hơn hiện thực cũng không phải là không có những tác dụng nhất định. Loại câu hỏi này đi vào những bức tranh nghệ thuật bộ phận, sắc sảo, tinh tế, có tính chất phát hiện sáng tạo. Trả lời được những câu gợi ý, những câu hỏi đó, minh hoạ được, tả lại được những cảnh tượng thể hiện sự rung động trong cảm thụ của người đọc và phản ánh ngay cái yếu, cái mạnh của trò có thể điều chỉnh hoặc để cho các em nhận xét về nhau cũng có thể bồi dưỡng được.
 Ví dụ: em hình dung như thế nào về cảnh tượng đám ma con cò trong bài ca dao "Con cò chết rũ trên cây"? Hãy kể lại cho các bạn nghe.
 c, Hệ thống câu hỏi phát hiện thủ pháp nghệ thuật
 Như chúng ta đã biết những bài ca dao được đưa vào SGK Ngữ văn 7 có nhiều thủ pháp nghệ thuật khác nhau mang nét đặc trưng của ca dao truyền thống. Đó là các thủ pháp nghệ thuật như : so sánh, ẩn dụ, nhân hoá, phóng đại (đã trình bày ở phần trên "Đặc điểm thi pháp nghệ thuật") giáo viên cần sử dụng những câu hỏi để học sinh để học sinh phát hiện được những thủ pháp nghệ thuật quen thuộc trong ca dao.
 - Ngoài ra, cũng như dạy các văn bản thuộc thể loại trữ tình giáo viên cần sử dụng những câu hỏi bình nhưng chú ý phải có câu hỏi đi từ phân tích, giảng giải, nắm được nghĩa lí của kết cấu, hình tượng từ ngữ rồi mới đến câu hỏi bình.
 b.2. Tìm những câu ca dao tương tự
 Tư liệu về một bài ca dao khi thì cùng về một đề tài, khi thì gần nhau ở cách diễn đạt, chúng nằm trong hệ những bài ca. Phải đặt được bài ca dao vào hệ thống, hệ đề tài của nó mới dễ xác định được môi sinh và từ đó mới có thể tạo tình huống cho giờ phân tích loại bài ca đặc biệt này.
 Ví dụ: Khi dạy bài ca dao "Công cha như núi ngất trời" giáo viên nên yêu cầu học sinh tìm những bài, những câu ca dao có nội dung tương tự. Đó là bài:
	Công cha như núi Thái Sơn
 Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
 Một lòng thờ mẹ kính cha
 Cho tròn chữ hiếu mơi là đạo con.
 - Những bài ca có nội dung tương tự như bài "Chiều chiều ra đứng ngõ sau" như:
 - Chiều chiều xách giỏ hái rau
 Ngó lên mả mẹ ruột đau chín chiều.
 - Chiều chiều ra đứng bờ sông
 Muốn về quê mẹ mà không có đò.
 - Vẳng nghe chim vịt kêu chiều
 Buâng khuâng nhớ mẹ chín chiều ruột đau.
 c, Phần phân tích
 Một tác phẩm văn học được coi là thành công bởi có sự đóng góp của hai yếu tố đó là nội dung và nghệ thuật. Phần tổng kết nội dung và nghệ thuật giáo viên nên sử dụng những câu hỏi để học sinh tự khái quát lại nội dung và tổng hợp các biện pháp nghệ thuật mà tác giả dân gian đã sử dụng trong bài ca (tránh trường hợp giao viên gọi học sinh đọc ghi nhớ ngay). Hoặc có thể sử dụng dạng bài tập trắc nghiệm để kiểm tra mức độ hiểu bài của học sinh.
 d, Phần luyện tập
 Đa số các bài tập phần luyện tập đều hỏi về nội dung và nghệ thuật của những bài ca dao cùng đề tài nên giáo viên có thể kết hợp trong quá trình phân tích và phần tổng kết (trường hợp bài dài thì giao bài tập phần luyện tập cho học sinh về nhà làm).
Phần 3 
kết luận
I- kết quả của của đề tài:
 Qua gần ba năm dạy môn Ngữ văn lớp 7 tôi đã hướng dẫn các em học sinh nắm được khái niệm, đặc điểm của ca dao - dân ca. Các em đã có kĩ năng và chủ động trong việc thưởng thức tác phẩm văn chương thuộc thể loại trữ tình dân gian. Nhiều em đã thực sự yêu thích môn Văn, có em đã sưu tầm được khá nhiều bài ca dao theo chủ đề và chép vào sổ tay văn học. Chính những bài ca dao này phần nào đã minh hoạ cụ thể, sinh động cho kiểu văn bản biểu cảm giúp các em dễ dàng tiếp nhận và thực hành kiểu văn bản này.
II- kết luận :
 Giảng dạy ca dao - dân ca là một hoạt động hội tụ được nhiều kĩ năng và tri thức, trong đó hạt nhân là kiến thức và kĩ năng xử lí những văn bản ca dao - dân ca (một thể loại trữ tình dân gian) cụ thể với một kĩ năng tổ chức dạy học - kĩ năng sư phạm trước một đối tượng là học sinh THCS. Tuỳ theo những bài ca dao - dân ca với đặc trưng thể loại và đề tài của nó (bởi vì văn bản chỉ tồn tại trong thể loại), mà người giáo viên tổ chức cho học sinh đọc tác phẩm, chỉ ra phương pháp phát hiện, sưu tập, lựa chọn, phân tích, sử dụng sáng tạo như tư liệu nguồn để có thể khám phá ý nghĩa, giá trị của tác phẩm. Trên cơ sở đó mà tích hợp giá trị của nhân cách. Sự tích hợp này sẽ vừa mang bản sắc cá nhân, vừa có sắc thái cộng đồng - một điểm có thể trở nên rất mạnh, tuỳ thuộc vào tài năng, đức độ của người giáo viên và môi trường sư phạm.
 Để giảng dạy ca dao - dân ca có hiệu quả, hay dạy - học theo phương pháp tích cực, chúng ta cần hiểu rõ rằng : phương pháp tích cực thực chất sẽ xuất hiện ngay trong quá trình dạy học, mang sắc thái linh hoạt và phong cách của mỗi người. và đó cũng chính là điều giá dục của ta và nhiều nước đang nhằm đến : Trao quyền sáng tạo cho mỗi cá nhân.
 Trên đây tôi vừa trình bày một số vấn đề về "Giảng dạy ca dao - dân ca trong chương trình Ngữ văn lớp 7". Có thể những vấn đề nêu trên chưa phải là toàn diện, rất mong được những ý kiến đóng góp của các đồng chí lãnh đạo, các đồng chí tổ chuyên môn về vấn đề này.
 Xin chân thành cảm ơn!
 Lương Phú, ngày 28 tháng 05 năm 2010
 Người viết
 Nguyễn Thị Lâm

File đính kèm:

  • docSang_kien_ngu_van_7_ca_dao_dan_ca.doc
Sáng Kiến Liên Quan