Một số mẹo giúp học sinh yếu Lớp 8 yêu tác phẩm văn học

Người giáo viên bao giờ cũng muốn học trò của mình làm được những bài văn hay nhưng đó không phải là một việc dễ. Muốn làm được những bài văn hay trước hết các con phải có những niềm đam mê, yêu thích với tác phẩm văn học và có những dung động thực sự trước những cái hay cái đẹp của tác phẩm văn học thì các con mới có sự trải nghiệm và thổn thức với những dòng văn của các tác giả và tù đó mới tự mình làm được những bài văn thực sự có giá trị với bản thân.

Ngày nay, dường như các trò ít khi quan tâm đến những môn xã hội và nhất là môn Văn thì việc hình thành và say mê với tác phẩm một cách thực sự đó là một điều khó khăn, bởi thời gian và xu hướng thời cuộc khiến các trò không mấy mặn mà với môn học này.

Trong thực tế dạy – học tôi thấy, việc các trò đọc trước tác phẩm trong sách giáo khoa khi học văn bản là rất hạn chế, mà có đọc thì cũng là chiếu lệ, mà ít hứng thú, chứ chưa nói tới việc tìm hiểu những thông tin liên quan đến văn bản văn học mà con sắp học. Ước mơ của tôi là các con hãy dành thêm chút ít thời gian nữa để yêu thực sự các văn bản mà nhà biên soạn sách đã chon lọc gửi vào hơn 200 trang sách của môn Ngữ Văn 8( mà trong đó đã bao gồm cả nội dung phân môn Tiếng việt, và Tập làm văn).

Trong tôi luôn thao thức một câu hỏi: làm thế nào để các con yêu tác phẩm văn học?

Do đó tôi thấy cần phải tìm tòi, nghiên cứu để tìm ra giải pháp tốt giúp học sinh yêu thích tác phẩm văn học lớp 8.

 

doc17 trang | Chia sẻ: sangkien | Lượt xem: 6319 | Lượt tải: 1Download
Bạn đang xem tài liệu "Một số mẹo giúp học sinh yếu Lớp 8 yêu tác phẩm văn học", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phẩm văn học trong chương trình Ngữ văn 8.
Trong những biện pháp đó, việc động viên khích lệ về tinh thần cũng như vật chất (điểm số) là rất quan trọng.
Sau đây tôi xin trình bày “ Một số mẹo giúp học sinh yêu tác phẩm văn học trong chương trình Ngữ văn 8 ở trường THCS Hồng Dương”.
Số liệu thống kê chất lượng bài làm văn của HS khi chưa áp dụng SKKN
Tổng số HS
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Kém
 39
0
06
28
3
2
3. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề:
3.1. Đọc trước tác phẩm ở nhà:
Để có một sự cảm nhận văn học một cách hoàn chỉnh thì thời gian dành cho tác phẩm văn học phải là sự đầu tư thích đáng.
 Cũng chính vì lẽ đó hướng dẫn các em làm tốt bước này sẽ giúp học sinh tránh được việc lên lóp như vịt nghe sấm mà không hiểu cô giảng cái gì và ở đâu. Thậm chí khi cô yêu cầu đứng lên đọc văn bản còn ngấp ngứ vì không có sự chuẩn bị ở nhà.
 Đọc trước văn bản không chỉ dừng lại ở việc đọc vậy, đọc cho xong mặt chữ mà càn đọc có chủ đích tức là đọc – hiểu từ đó có thể soạn bài bằng cách sử dựng vở bài tập để soạn bài trước ở nhà bằng hệ thống câu hỏi trong vở bài tập Ngữ văn 8 mà các em đã mua.
Đối với tác phẩm văn xuôi, mà là truyện thì việc sau khi các em đọc xong tác phẩm thì các em phải vạch ra được những câu hỏi:
Tác phẩm có nhân vật chính là ai?
Cốt truyện là gì?
Từ đó các con phải tóm tắt tác phẩm một cách ngắn gọn nhất.
Phải nhớ được những lời thoại đặc biệt có trong truyện và những triết lí quan trọng có trong văn bản.
Tìm hiểu về giá trị nội dung và nghệ thuật nổi bật của văn bản, ý nghĩa tư tưởng mà văn bản mang trong nó.
Đối với tác phẩm thơ thì việc sau khi các em đọc xong tác phẩm thì các em phải vạch ra được những câu hỏi:
Hoàn cảnh sáng tác bài thơ là khi nào? 
Vì sao mà nhà thơ lại có những cảm xúc đó?
Em cảm nhận thấy gì khi nhắm mắt lại sau khi đọc xong bài thơ?
Đối với tác phẩm văn xuôi, mà là văn nghị luận thì việc sau khi các em đọc xong tác phẩm thì các em phải vạch ra được những câu hỏi:
Vì sao tác giả lại viết văn bản này?
Hoàn cảnh đất nước đương thời ra sao?
Thông điệp mà người viết muốn truyền tải đến người nghe là gì?
Cảm nhận về tầm nhìn ở thời đại lúc bấy giờ?
 Đối với tác phẩm văn xuôi, mà là kịch thì việc sau khi các em đọc xong tác phẩm thì các em phải vạch ra được những câu hỏi:
Vở kịch ấy có mấy nhân vật?
Có các lớp kịch, hay mấy cảnh xảy ra trong vở?
Câu thoại nào là câu gây ấn tượng với em nhất?
Ý nghia của vở kịch với bản thân em?
Đối với học sinh thì việc chuẩn bị này là hạn chế khi tìm hiểu trước tác phẩm ở nhà.
Nắm được hạn chế đó của học sinh nên tôi luôn hướng dẫn học sinh thực hiện thao tác này và nó được lặp đi lặp lại ở mỗi tác phẩm văn học, cũng như trước các vấn đề trong tìm hiểu trước ở nhà của chương trìnhg địa phương. Trên cơ sở đó các em sẽ biến nó thành một kĩ năng cần thiết trước khi tìm hiểu tác phẩm ở trên lớp.
Ví dụ: 
Như chuẩn bị học tác phẩm : “ Lão Hạc” của Nam Cao, tôi yêu cầu trò phải về nhà đọc kĩ tác phẩm trong sách giáo khoa.
 Sau đó thì lần lượt trả lời cái câu hỏi mà tôi đã nêu ở trên như:
 - Tác phẩm có nhân vật chính là ai? ( lão Hạc và ông giáo, ngoài ra có Binh Tư, vợ ông giáo, cậu Vàng)
-Cốt truyện là gì? ( Diễn biến xoay quanh câu chuyện vì quá nghèo mà lão Hạc phải bán con chó vàng – kỉ vật duy nhất mà con trai lão để lại -, và cũng vì quá nghèo mà lão Hạc phải ăn bả chó để kết liễu cuộc đời mình cho đỡ tốn tiền để dành cho con trai).
Từ đó các con phải tóm tắt tác phẩm một cách ngắn gọn nhất.
Phải nhớ được những lời thoại đặc biệt có trong truyện và những triết lí quan trọng có trong văn bản. 
Như lời thoại quan trọng và mở đầu cho việc mở ra những chi tiết xảy ra trong tác phẩm đó là:”tôi bán cậu Vàng rồi, ông giáo a!” hay triết lí : “ chao ôi, nếu cuộc đời này mà không mở rộng lòng mình ra và hiểu về họ thì mãi thấy họ ích kỉ và ta không thể nào hiểu nổi về họ”
Tìm hiểu về giá trị nội dung và nghệ thuật nổi bật của văn bản, ý nghĩa tư tưởng mà văn bản mang trong nó.
 Ví dụ :
 Đối với tác phẩm thơ: “ Đập đá ở Côn Lôn” của Phân Châu Trinh khi các em chuẩn bị học tác phẩm thì các em phải vạch ra được những câu hỏi:
Hoàn cảnh sáng tác bài thơ là khi nào? ( Khi nhà thơ trực tiếp tham gia phong trào vân đông nhân dân chống lại bọn thực dân Pháp đòi hỏi quyền lợi cho nhân dân Việt Nam và ông đã bị bắt, bị đày ra Côn Đảo, phải làm công việc khổ sai là đập đá xxay nahf tù ở đây).
Vì sao mà nhà thơ lại có những cảm xúc đó? ( đó là cảm xúc chân thực mà đầy ngạo nghễ khí phách của chí làm trai được kế thừa từ thời kì trước khi đưng hiên ngang giữa đất trời Côn Đảo. Khí khái cộng với giọng điệu khoa trương tạo lên 1 bức tranh tuyệt đẹp về con người ngang tàn đứng trong trời đất để làm công việc như Nữ Oa đội đá vá trời.
Em cảm nhận thấy gì khi nhắm mắt lại sau khi đọc xong bài thơ? ( Đó là cảnh thiên nhiên ba chiều tuyệt đẹp có trời, biển, có không gian khoáng đạt bao la và những người tù yêu nước đang phải làm công việc khổ sai nhưng họ không hề kêu than hay phàn nàn mà ngược lại rất khí khái, anh hùng.
 Ví dụ:
 Đối với tác phẩm văn xuôi, mà là văn nghị luận : “ Bàn luận về phép học” của La sơn Phu tử Nguyễn Thiếp khi các em đọc xong tác phẩm thì các em phải vạch ra được những câu hỏi:
Vì sao tác giả lại viết văn bản này? ( đó là khi tác giả chuẩn bị ra gặp mặt vua Quang Trung để dâng tấu về 3 điều cơ bản giúp vua trị quốc trong thời kì nước nhà vùa dẹp tan 29 vạn quân Thanh xong, và 2 trong 3 điều ấy là quan điểm giáo dục mới của nước nhà nếu muốn nền giáo dục của quốc gia hưng thịnh.
Hoàn cảnh đất nước đương thời ra sao?( nước nhà vùa dẹp tan xong giặc Thanh, đất nước còn đầy rẫy những thù trong giặc ngoài, sự chống phá ngấm ngầm của cựu triều là nhà Lê, kẻ thù bên ngoài thì mặc dù đang sợ vỡ mật nhưng thực chất chỉ chờ cơ hội sẽ có thể quay lại để phục thù. Thế nên, Quang Trung muốn cầu người hiền có tấm lòng và có tầm nhìn xa ra để giúp nước).
Thông điệp mà người viết muốn truyền tải đến người nghe là gì?( muốn đất nước được thịnh trị thì triều đình phải ngay ngắn, và muốn triều đình ngay ngắn thì việc duy nhất đó là phải chấn chỉnh việc học cho ra hồn nếu không thì sao có thể có được một quốc gia hưng thịnh lâu bền)
Cảm nhận về tầm nhìn ở thời đại lúc bấy giờ? ( đến bây giờ thì những phép học và cách dạy người của La sơn phu tử vẫn hết sức đúng đắn và được áp dụng một cách triệt để)
3.2. Giáo viên cung cấp tư liệu liên quan 
 Muốn để các em có thể hiểu được và nhớ lâu cũng như thích môn Văn học thì có lẽ kể các mẩu chuyện liên quan trực tiếp, hoặc những câu chuyện thời đại lịch sử là một phương cách hữu hiệu để các trò nhớ rất lâu về văn bản.
 Tôi đã áp dụng nhiều lần phương pháp này và được học sinh rất ưa thích.
 Bởi nếu chỉ cung cấp những tư liệu trong sách thì chỉ cần đọc hết vài trang sách và làm hết phần gợi ý trong hệ thống câu hỏi là có thể trẻ đã nắm gần hết nội dung bài rồi. Nhưng việc mở rộng tư liệu bên ngoài sẽ giúp trẻ yêu thêm văn bản và quý trọng người dạy mình hơn.
 Ví dụ như khi dạy tác phẩm: “Tức cảnh Pắc Bó”, thì giáo viên có thể lòng ghép cung cấp tư liệu cho học sinh khi giảng văn mẩu chuyện do Võ Nguyên Giáp kể về ở rừng của Bác Hồ như cảnh Bác đang nằm ngủ khi tỉnh dậy thấy con rắn hổ mang đang nằm cuộn khoanh trong người của Bác, khiến Người lạnh toát cả người mà không dám động cựa.
 Ví dụ khi dạy tác phẩm “Lão Hạc”, giáo viên có thể cung cấp những mẩu chuyện : “ Một bữa no” hay “ trẻ con không được ăn thịt chó” của đồng tác giả.
 Hay khi dạy tác phẩm: “ Hịch tướng sĩ” của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, có thể kết hợp thêm với trò về mẩu chuyện giặc Mông - Nguyên ngông cuồng ngang ngược khi đi đến nước ta . Năm 1227, sài Xuân đi sứ, buộc ta lên tận biên giới đón rước, năm 1281, Sài Xuân lại sang xứ, cưỡi ngựa vào hẳn cửa Dương Minh, quân sĩ Thiên Trường ngăn lại, bị Xuân lấy roi đánh toạc cả đầu: vua sai thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải ra tiếp, Xuân nằm khểnh không dậy.
 Hay khi tìm hiểu về tác phẩm : “ Thuế máu” của Nguyễn Ái Quốc ta có thể đọc cho các con nghe mẩu tư liệu Hành hình kiểu lin sơ.
 Hoặc khi tìm hiểu về : “ Cô bé bán diêm” của nhà văn Đan Mạch An –đéc-xen ta có thể kể thêm những mẩu chuyện mà ông đã sáng tác như: Bộ quần áo mới của hoàng đế, Công chúa và hạt đậu, hoặc đàn thiên nga trở về....
 Chính những điều này khiến cho trò nhỏ yêu thích, và gắn kết với tác phẩm hơn.
3.3 Giải thích từ khó
 Một trong những cách để giải mã tác phẩm văn học và hiểu ngon ngành về tác phẩm văn học đó là phải cắt nghĩa được từ khó có trong bài.
Không cắt nghĩa được từ khó hay các điển tích có trong văn bản coi nhưu văn bản ấy chưa được mở hết các cánh cửa của một tòa tháp cổ.
 Và đồng thời cũng chẳng thể hiểu thấu đáo được nội dung hay giá trị nghệ thuật mà văn bản ấy muốn truyền tải.
 Đơn cử như khi học tới văn bản: “ Tức nước vỡ bờ” mà trò chỉ hiểu đơn thuần nghãi đen của văn bản thì sao có thể hiểu hết giá trị của ý đồ người biên soạn sách muốn truyền đạt trong đoạn trích này. 
 Hay khi học đến đoạn trích: “ Nước Đại Việt ta” của Nguyễn Trãi, trò phải hiểu được tại sao Nguyễn Trãi không sử dụng từ: “Bình Minh đại cáo” mà lại là : “ Bình Ngô đại cáo”
 Hay cũng chính trong tác phẩm này ngay những dòng đầu có nói đến: “ quân điếu phạt”, nhiều người vẫn luôn nhắc đến và hiểu được ngay rằng: “ quân” là quân sĩ, nhưng có thể hiểu ở đây có nghĩa là : “ vua”
 Đồng thời trong văn bản này ta có thể thấy trong bản dịch sách giáo khoa có nhắc đến từ 
 “ xây” trong câu: “ Từ Triệu, Đinh , Lý Trần bao đời xây nền độc lập”, liệu dịch “ xây” có hợp lí bằng”gây”
 Hay là trong: “ hịch tướng sĩ”, có điển tích :” nếm mật nằm gai”, chắc chắn trò không thể hiểu được ý nghĩa của cụm tù này thì việc của giáo viên phải cung cấp cho trò những kiến thức cần thiết để cho có thể hiểu được giá trị của điển tích.
 Cũng nhờ quá trình tìm hiểu từ mà trò có thêm được kĩ năng bình giảng văn học, chẳng hạn khi học tác phẩm: “ Ngắm trăng”, thì chính việc tìm hiểu nghĩa của từ trong tiếng Hán và cách dịch thơ có thể cho trò hiểu thêm về cách dịch ấy có gì hay và chưa hay. Trong bản dịch: “Ngục trung vô tửu, diệc vô hoa/ Đối thử lương tiêu nại nhược hà”, và trong bản dịch của Nam Trân lại dịch: “ Trong tù không rượu cũng không hoa/ cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ”. Và chính sự so sánh này khiến trò sẽ thấy được sự khác biệt như thế này trong bản dịch và bản gốc.
 3.4 Kết hợp với viết đoạn văn cảm nhận sau khi học xong văn bản văn học
Để kiểm chứng kết quả và thể hiện được những điều đã học xong trong một văn bản thì việc hành văn hay chính là viết ra những hiểu biết của mình về nó đó là một giải pháp rất cần thiết và quan trọng.
Ví dụ 1: 
Khi học xong văn bản Lão Hạc của Nam Cao (tiết 13 -14, bài 4) tôi cho học sinh bài tập về nhà: Về nhà mỗi em viết một đoạn văn nói về Lão Hạc – người nông dân Việt Nam trước cách mạng tháng tám (cho HS câu chủ đề: Lão Hạc là con người nghèo khổ nhưng lão có nhiều phẩm chất đáng quý.)
Ví dụ 2: 
Khi dạy xong tiết 21 – 22, văn bản Cô bé bán diêm, GV ra bài tập cho HS về nhà làm:
Em thử tưởng tượng mình là người chứng kiến cái chết của cô bé trong truyện Cô bé bán diêm của An – đéc – xen, bây giờ các bạn muốn nghe em kể lại cái chết của cô bé. Vậy em hãy viết một đoạn văn kể lại cho các bạn cùng nghe.
Tới tiết học tiếp theo giáo viên thu bài của các em về nhà chấm, sửa và nhận xét trong bài viết cho các em.
Khi trả lại bài cho học sinh, giáo viên cho đọc một số bài viết tốt để các em rút kinh nghiệm cho bài của mình.
Ví dụ 3: 
Bài Từ ngữ địa phương và biệt ngữ xã hội (tiết 17 – bài 5) có nội dung tương đối ngắn, bài tập dễ nên giáo viên cho học sinh làm bài tập ở nhà. Thời gian trên lớp giáo viên cho học sinh làm bài tập: em hãy viết một đoạn văn ngắn kể về người mẹ (hoặc cha) của mình trong đó có sử dụng từ ngữ địa phương.
Khi học sinh viết xong, giáo viên mời 2 học sinh đọc bài rồi mời những học sinh khác nhận xét. Sau đó giáo viên kết luận về nội dung, chủ đề và hình thức trình bày.
Bài của những học sinh còn lại giáo viên thu để về nhà xem (học sinh chưa viết xong thì thu lại ở tiết sau).
Ví dụ 4: 
Khi dạy xong tiết 25 - 26, Đánh nhau với cối xay gió, giáo viên yêu cầu học sinh về nhà viết đoạn văn với gợi ý: Sự tương phản giữa Đôn - ki - hô - tê và Xan - chô - Pan - xa.
Đến tiết 28, bài 7 - Luyện tập viết đoạn văn tự sự kết hợp với miêu tả và biểu cảm, giáo viên mời 2 học sinh trình bày đoạn văn.
Khi học sinh luyện viết đoạn văn có thể có lỗi về câu và chính tả do học sinh tự sắp xếp vì vậy giáo viên cũng cần hướng dẫn học sinh sửa lỗi về câu và chính tả.
Có thể nói việc luyện viết đoạn văn tự sự là rất cần thiết, học sinh viết tốt đoạn văn tự sự có nghĩa là học sinh đã nắm được những yêu cầu của đoạn văn. Trên cơ sở đó khi học văn bản thuyết minh và văn nghị luận học sinh sẽ viết tốt đoạn văn - đó là một trong những tiền đề để học sinh làm tốt các kiểu văn bản khác.
Cũng như ở ví dụ 1, nhưng có thể cho học sinh tìm phương tiện liên kết trong văn bản “ Đánh nhau với cối xay gió” ( Xéc - van - téc), ở văn bản này thì dễ nhận biết hơn.
Trên cơ sở bài tập này, giáo viên đã giúp học sinh khắc sâu kiến thức phần lí thuyết, từ đây có thể cho học sinh thực hành việc liên kết đoạn văn.
Việc viết các đoạn văn có sự liên kết với nhau đối với học sinh trung bình và yếu là tương đối khó. Cho nên trong quá trình dạy tôi luôn có những đoạn văn mẫu cho các em. Bên cạnh đó là bài của các em học sinh khá giỏi. Đồng thời luôn khích lệ tinh thần cho các em.
Ở dạng bài này, giáo viên vừa cho học sinh luyện tập ở trên lớp vừa cho các em về nhà làm (giáo viên phải thu vở bài tập rồi chấm và sửa cho học sinh).
Văn bản Đánh nhau với cối xay gió (Xéc - van - téc) có hai nhân vật Đôn - ki - hô - tê và Xan - chô - Pan - xa tương phản nhau về mọi mặt. Vậy sau bài học đó giáo viên yêu cấu học sinh viết 2 đoạn văn nói về hai nhân vật (hai đoạn có quan hệ đối lập).
Ví dụ 3: 
Học xong văn bản Lão Hạc của Nam Cao (tiết 13 -14, bài 4), học sinh biết rằng chị Dậu và lão Hạc là những con người tiêu biểu cho tầng lớp nông dân Việt Nam trước cách mạng tháng 8. Giáo viên có thể cho học sinh viết hai đoạn văn nói về số phận và tính cách của người nông dân (thông qua lão Hạc và chị Dậu).
Có thể nói rằng để viết được một bài văn đúng và hay là rất khó, bởi ngoài việc có kiến thức vững vàng nó còn đòi hỏi người viết phải vận dụng nhiều kĩ năng khác nhau. Nhìn chung các kĩ năng đó các em đã được học nhưng do đặc điểm lứa tuổi, cũng như thời gian thực hành còn hạn chế nên người giáo viên phải có biện pháp giúp các em thành thạo những kĩ năng đó mới mong các em vận dụng tốt được.
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:
 Để đánh giá kết quả đã đạt được, giáo viên dựa vào bài kiểm tra chất lượng học kì.
 Kết quả khi chưa áp dụng:
Tổng số
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu-kém
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
39
0
0
06
7.1
28
64.7
5
28.2
 Kết quả khi áp dụng:
Tổng số
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
39
0
0
19
22.4
18
72.9
2
4.7
Sau một thời gian nhận thấy thực trạng bài làm văn của học sinh lớp 8 trường THCS Hồng Dương. Tôi đã kịp thời tìm ra nguyên nhân bài làm văn của các em đạt kết quả chưa cao. Tôi nhanh chóng tìm ra giải pháp của bản thân cá nhân tôi mong rằng chất lượng bài làm của các em từng bước nâng cao dần lên. So với chất lượng những năm trước thì chất lượng hai năm học gần đây (2012-2013; 2013-2014) đã có bước chuyển biến đáng kể cụ thể giảm tối đa hoc sinh yếu kém.
Tuy nhiên kết quả như vậy chưa phải là cao nhưng đó cũng là một sự thay 
đổi chất lượng bài làm của các em.
III. KẾT LUẬN:
1. Một số lưu ý:
Để trở thành người thợ giỏi ở bất cứ một ngành nghề nào người thợ cũng phải trải qua quá trình học tập và rèn luyện lâu dài. Để yêu một tác phẩm văn học cũng vậy, học sinh phải trải qua quá trình rèn luyện nghiêm túc có sự hướng dẫn của giáo viên.
Trong quá trình dạy, giáo viên giúp học sinh nhớ lại những kiến thức cũ 
đã học thì mới mong các em nhớ được những kiến thức một cách có hệ thống.
Để áp dụng có hiệu quả những biện pháp này, người giáo viên thực sự tâm huyết, có tinh thần trách nhiệm, dành thời gian nhiều. Do học sinh phải thực hiện phần bài tập ở nhà nhiều nên giáo viên phải thu vở bài tập về nhà để chấm, sửa cho các em.
Giáo viên thường xuyên hướng dẫn, kiểm tra, theo dõi quá trình học sinh làm bài. Điều quan trọng là giáo viên biết động viên, khuyến khích, tuyên dương học sinh đúng lúc, kịp thời. Bên cạnh đó, với học sinh điểm số rất quan trọng nên khi chấm bài tập hoặc khi các em trình bày thì giáo viên nên cho học sinh điểm số và có điểm cho tinh thần tự giác.
Nếu giáo viên làm tốt điều đó thì các em sẽ rất tự giác và có hứng thú làm bài tập ở nhà cũng như trên lớp. Trong trường hợp giáo viên có quên thu bài thì cũng sẽ được các em “nhắc nhở”.
Bên cạnh việc động viên, khuyến khích, giáo viên cũng cần có biện pháp đối với những học sinh còn có tư tưởng trông chờ, ỷ lại như yêu cầu các em ở lại sau buổi học để làm bài tập, mượn bài của bạn chép lại nhiều lần 
Hiện nay đã có tiết tự chọn (hai tiết/1tuần cho môn Ngữ văn), khi dạy tiết này, trong thực hành giáo viên có những bài tập dễ hơn cho học sinh yếu. Khi các em làm được giáo viên mới nâng độ khó lên dần.
2. Lời kết:
Trên đây là một số biện pháp giúp học sinh yêu tác phẩm văn học trong nhà trường chương trình Ngữ văn 8. Đó cũng là những gì tôi tích luỹ được trong quá trình dạy văn suốt thời gian qua.
Qua quá trình giảng dạy, tìm hiểu, trao đổi với đồng nghiệp, thông qua tiết dự giờ, tham khảo tài liệu  tôi đã tích luỹ được cho mình một số kinh nghiệm, nó được tôi áp dụng vào bài dạy khi khi lên lớp tại trường THCS Hồng Dương.
Khi áp dụng những kinh nghiệm trên vào bài dạy, sau một thời gian chất lượng của học sinh đã được nâng lên rõ rệt, giảm được số bài không đạt yêu cầu, và số bài tốt cũng tăng lên.
Những biện pháp trên được tôi rút ra từ thực tế cũng như thông qua trao đổi với đồng nghiệp, có thể vẫn còn hạn chế. Vậy tôi mong được tiếp thu ý kiến đóng góp của BGH, Hội đồng khoa học nhà trường và Hội đồng khoa học của Phòng giáo dục - đào tạo để từ đó có thể trao đổi, rút kinh nghiệm giúp tôi nâng cao chất lượng giảng dạy ở bộ môn.
3. Bài học kinh nghiệm:
Trong dạy học nói chung và dạy học môn Ngữ văn nói riêng, người giáo viên phải luôn không ngừng tìm tòi học hỏi để nâng cao trình độ nhận thức và trình độ chuyên môn. Sự sáng tạo là yêu cầu cần phải có của người giáo viên khi làm công tác dạy học. Trên cơ sở đó giúp học sinh của mình tiếp thu bài, hình thành kĩ năng, kĩ xảo tốt hơn.
Tuy nhiên khi áp dụng những biện pháp nào đó thì giáo viên phải tìm hiểu kĩ những hạn chế của học sinh mình. Nếu thành công sẽ là động lực rất lớn làm cho người giáo viên tự tin hơn, mạnh dạn hơn trong việc sáng tạo.
Người giáo viên cần ý thức được vai trò của mình. Khi lên lớp giáo viên phải có tinh thần trách nhiệm cao. Như vậy mới có thể tận tâm, mới vui buồn khi học sinh học tốt hay không tốt. Đó là động lực giúp giáo viên tìm tòi, sáng tạo trong công tác của mình. Nhờ vậy mà học sinh lĩnh hội tri thức tốt hơn.
Phải nói rằng qua việc thực hiện đề tài này tôi đã rút ra được cho mình rất nhiều bài học từ việc xác định kiến thức bổ sung, soạn giáo án cho đến việc giảng dạy.
 Ý kiến đề xuất:
Thư viện nhà trường nên có thêm tranh ảnh phục vụ tốt cho quá trình dạy học bài giảng Ngữ văn 8. Bổ xung các tác phẩm có đoạn trích được học. Đặc biệt là các tác phẩm nước ngoài, chân dung của một số nhà thơ lớn, các tài liệu tham khảo, sách nâng cao cho giáo viên học sinh.
Cuối cùng tôi xin trân thành cảm ơn BGH nhà trường, tổ Khoa học Xã hội trường THCS Bạch Đích đã tạo điều kiện cho tôi hoàn thành sáng kiến kinh nghiệm này.
 Tôi xin Cam đoan văn bản sáng kiến này hoàn toàn do tôi tự sáng tác không sao chép hay lấy của bất kì ai. Nếu sai phạm tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm trước hội đông khoa học của nhà trường.
Tôi xin chân thành cám ơn!
Tài liệu tham khảo:
 1. Giáo trình tâm lí giáo dục.
 2. Tài liệu giáo dục học.
 3. Sách giáo khoa lớp 8.
 4. Sách giáo viên và thiết kế bài giảng lớp 8.
	 5. Các bài văn mẫu lớp 8 THCS.
 6. Sách tham khảo.

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_de_taimeo_giup_hoc_sinh_yeu_tac_pham_van_hoc_8.doc
Sáng Kiến Liên Quan