Biện pháp về dạy học nâng cao chất lượng môn Toán 7 ở trường THCS

A. PHẦN MỞ ĐẦU

1) Lý do chọn đề tài:

Năm học 2007- 2008 với quyết tâm thực hiện yêu cầu đổi mới nội dung phương pháp dạy và học của thầy và trò. Đảm bảo hướng dẫn và tích cực hoá hoạt động dạy và học, tạo sự chuyển biến thực sự về việc truyền đạt kiến thức và kĩ năng của chương trình học ở bộ môn Toán của tổ Tự nhiên có ứng dụng công nghệ thông tin. Bản thân tôi luôn trăn trở làm thế nào để nâng cao chất lượng dạy học môn Toán và làm cho các em yêu thích môn học này. Đó là lý do để tôi chọn đề tài khoa học này.

2) Mục đích nghiên cứu:

Trường THCS ĐắkCấm là trường vùng ven không mấy thuận lợi, việc học của học sinh ít được quan tâm và đầu tư nên chất lượng thấp chưa đáp ứng với nhu cầu. Mỗi giáo viên có cách dạy riêng, có nhiều biện pháp khác nhau trong dạy học bộ môn Toán để nâng cao chất lượng bộ môn. Trong quá trình dạy học và qua dự giờ đồng nghiệp bản thân đã áp dụng một số biện pháp dạy học hiệu quả góp phần nâng cao chất lượng bộ môn Toán.

 3) Cơ sở và đối tượng nghiên cứu:

 - Cơ sở nghiên cứu: Sách giáo khoa Toán 7, sách giáo viên Toán 7, tài liệu ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy môn Toán.

 - Đối tượng: Học sinh khối 7 bậc THCS.

 

doc18 trang | Chia sẻ: haianh98 | Lượt xem: 16299 | Lượt tải: 1Download
Bạn đang xem tài liệu "Biện pháp về dạy học nâng cao chất lượng môn Toán 7 ở trường THCS", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ho một tiết dạy là hết sức cần thiết để học sinh hiểu được kiến thức một cách sâu sắc, sát với thực tế, hiểu được các kiến thức đó có được do đâu ? Dựa trên cơ sở nào ? Còn rất nhiều các vấn đề khác nếu được đầu tư chu đáo sẽ tạo nên một tiết học hấp dẫn, dễ học và gây hứng thú cho học sinh trong học tập.
Một vấn đề cần thiết nữa đặt ra là khi dạy một tiết học người giáo viên phải nắm bắt kịp thời số học sinh hiểu bài và chưa kịp hiểu bài. Từ đó có biện pháp giúp đỡ số học sinh chưa kịp hiểu bài. Sau mỗi tiết học đều phải có phần củng cố và luyện tập; bằng những câu hỏi trọng tâm, cơ bản tiết học người giáo viên phải quan sát từng đối tượng học sinh; chú ý đến học sinh yếu, cá biệt để nắm bắt tình hình tiếp nhận kiến thức trong nội dung bài học; bài luyện tập tại lớp cần được nâng dần từ dễ đến khó, từ những bài toán rất đơn giản đến phức tạp. Ngoài ra người giáo viên phải tính đến việc kiểm tra một lúc được nhiều học sinh; nhất là yêu cầu tối thiểu những nội dung cần đạt được. Chẳng
hạn khi dạy bài “ Luỹ thừa của một số hữu tỉ” giáo viên phải đưa ra một số bài tập nâng cao dần như sau:
	Thực hiện các phép tính sau:
a) 23 	 b) (- 5)3 	
c) ( 23 )2 	 d) 	
e) (1,5)3.8 	 f) 
g) 	 h) 
	i) v.v.
Các bài tập a, b, c, d dành cho học sinh yếu và kiểm tra một lúc đồng thời 4 học sinh lên bảng. Là các bài tập yêu cầu tối thiểu sau một tiết dạy học sinh phải tự làm được.
Khi giảng bài “Quan hệ giữa góc và cạnh đối diện trong một tam giác”, kiến thức học sinh cần nắm được trong tiết học này là nội dung định lí 1 và định lí 2. Định lí 2 là định lí đảo của định lí 1, từ đó trong tam giác ABC, AC > AB . Nội dung định lí 1, định lí 2 được phát biểu như sau:
Định lí 1: Trong một tam giác, góc đối diện với cạnh lớn hơn là góc lớn hơn.
Định lí 2: Trong một tam giác cạnh đối diện với góc lớn hơn là cạnh lớn hơn.
Để giúp học sinh nắm được định lí, cách vận dụng định lí để giải bài tập, yêu cầu tối thiểu để học sinh đạt được, giáo viên ra một bài tập:
Bài tập 1: So sánh các góc của tam giác ABC, biết rằng:
 AB = 2cm; BC = 4cm; AC = 5cm
Bài tập 2: So sánh các cạnh của tam giác ABC, biết rằng:
	Với bài tập này học sinh vận dụng trực tiếp định lí 1 và định lí 2 để giải:
 Bài tập 1:
 Áp dụng định lí 1, ta có:
 Tronghay 2cm < 4cm < 5cm
 Bài tập 2: Áp dụng định lí 2, ta có:
 Trong 
 Hay 
 do đó hay 450 < 550 < 800
 AC < AB < BC 
 Qua bài tập này giáo viên rút ra nhận xét cho học sinh thấy: Trong một tam giác nếu biết độ dài ba cạnh của tam giác thì ta có thể so sánh ba góc của tam giác đó và nếu biết số đo hai góc của một tam giác thì ta có thể so sánh ba cạnh của tam giác đó.
Sau khi học sinh nắm được bài tập này, giáo viên cho một bài tập nâng cao hơn như sau:
	Ba bạn Hạnh, Nguyên, Trang đi đến trường theo ba con đường AD, BD, CD ( hình vẽ sau). Biết rằng ba điểm A, B, C cùng nằm trên một đường thẳng và là góc tù. Hỏi ai đi xa nhất, ai đi gần nhất ? Hãy giải thích ?
Để giúp đỡ nhau trong học tập, học sinh khá giúp học sinh yếu, giáo viên có thể tạo ra các cặp học tập khá yếu. Trong những lúc rãnh rỗi, trong những giờ giải lao, kể cả ở nhà chỗ nào chưa hiểu bạn yếu có thể hỏi bạn khá. Khi đã tổ chức làm thì phải có những hình thức tuyên dương điển hình, khuyến khích thi đua với nhau, có kiểm tra việc tiến bộ của học sinh yếu với mục đích các em đều học được môn Toán và có phong trào học tập sôi nổi.
Trong sách bồi dưỡng môn Toán cấp tiểu học cho giáo viên có viết: “Số học là hạt nhân của chương trình toán”. Vì vậy người giáo viên cần dạy học sinh nắm vững chắc về cấu trúc của số học và các phép tính trên tập N, tập Z, tập Q. Do đó chương trình Toán lớp 6 là nền tảng để có cơ sở học các nội dung khác. Trong chương trình có những chỗ căn bản, trọng tâm nên giáo viên phải thường xuyên ôn luyện và ra bài tập thật nhiều để học sinh thực hành để kiến thức mới được khắc sâu và lâu quên. Giáo viên cũng cần hướng dẫn học sinh cách ôn tập chương, cách liệt kê các công thức toán để tóm tắt và chốt lại những điểm trọng tâm vận dụng vào giải bài tập.
Tóm lại trong quá trình dạy học sự nhiệt tình, chịu khó, tinh thần trách nhiệm của người giáo viên là đều không thể thiếu được để dạy nâng cao chất lượng học tập cho học sinh. Nhưng đó cũng chỉ là một mặt, là điều kiện cần nhưng chưa đủ để học sinh đạt chất lượng cao. Phải có sự kết hợp, vận dụng sáng tạo trong phương pháp dạy học nhất là phương pháp dạy học mới hiện nay. Người giáo viên cần chú ý trong từng trường hợp, từng đối tượng học sinh để học sinh tự lực của mình có điều kiện phát triển khả năng tư duy, chiếm lĩnh kiến thức.
4.Kế hoạch ra bài tập về nhà:
Môn Toán là môn học rất cần đến việc thực hành, luôn luôn phải có sự kết hợp với nhau giữa lý thuyết và thực hành. Qua thực hành mới củng cố được lý thuyết, khắc sâu kiến thức, rèn luyện kỹ năng tính toán và phát triển tư duy. Ở phạm vi SGK sau mỗi bài học đều có một lượng bài tập để học sinh thực hành, luyện tập nhưng đôi khi còn ít, hệ thống bài tập chưa đủ cho học sinh yếu tập làm quen từ những bài tập rất dễ để từng bước nâng dần giải những bài tập khó hơn. Do đó trong từng tiết dạy người giáo viên có thể ra thêm bài tập tùy tình hình lớp học để học sinh có điều kiện tiếp xúc với khâu thực hành và nội dung bài tập phong phú hơn.
Những số tiết cơ bản trong chương trình rất cần thiết. Vì vậy vấn đề luyện tập thật nhiều để học sinh nhớ lâu, củng cố lý thuyết được bền vững là rất cần thiết. 
Nếu khâu thực hành làm ít thì rõ ràng kiến thức chóng quên hơn, lí thuyết không được khắc sâu đậm nét. Chẳng hạn khi dạy cộng, trừ, nhân, chia số hữu tỉ ở học sinh lớp 7, cần có lượng bài tập thật nhiều để qua bài tập học sinh mới được khắc sâu kiến thức. Khi dạy học sinh mới giải toán hình, nếu học sinh ít giải bài tập, ngại thực hành thì chắc chắn các em không nhạy bén,vận dụng lý thuyết ít được linh hoạt vào giải bài tập. Điều này ảnh hưởng rất nhiều đến đợt kiểm tra, đợt thi, làm giảm sút chất lượng trầm trọng.
Nói chung do đặc điểm của môn Toán là môn học không thể nói suông, nói và làm phải luôn đi song song với nhau. Vì vậy, cần thực hành để rèn luyện kỹ năng, khắc sâu kiến thức và phát triển tư duy.
5.Kế hoạch kiểm tra bài tập về nhà:
Kiểm tra bài cũ, kiểm tra bài tập về nhà là việc rất cần thiết. Nếu chúng ta kiểm tra thường xuyên thì việc học bài cũ và làm bài tập ở nhà của các học sinh sẽ chu đáo hơn. Ngược lại, nếu bị xem nhẹ thì việc chuẩn bị bài tập, học bài cũ sẽ hạn chế và chất lượng học tập giảm rõ rệt.
Ở lứa tuổi của các em nhất là đầu cấp học đôi khi nhận thức còn kém, học là để đối phó thầy cô giáo, học là để giáo viên kiểm tra bài mình đã làm, đã thuộc. Chưa có sự hiểu biết phải tự giác học để hiểu, để bản thân mình được tiến bộ. Do vậy kiểm tra bài cũ thường xuyên là biện pháp để học sinh tự giác học bài và làm bài ở nhà trước khi đến lớp. Từ đó tạo nên không khí lớp học nghiêm túc, trật tự, mọi học sinh đều ở tư thế chuẩn bị giáo viên sẽ kiểm tra mình.
Thời gian kiểm tra bài cũ ở đầu các tiết học rất có giới hạn, không thể kiểm tra hết được. Vì vậy muốn nắm được việc làm bài tập ở nhà của học sinh một cách toàn diện người giáo viên phải nghĩ ra kế hoạch phân công các tổ trưởng chịu trách nhiệm kiểm tra từng thành viên trong tổ ở đầu buổi học. Đầu tiết học các tổ trưởng báo cáo tình hình chuẩn bị bài tập ở nhà của từng tổ viên. Học sinh nào chưa làm bài tập ở nhà sẽ có biện pháp xử phạt thích đáng. Trong trường hợp học sinh không làm bài tập ở nhà mà lên lớp mượn vở bạn chép cũng được báo lại và sẽ xử phạt nặng hơn.
Sau khi các tổ trưởng báo cáo lại xong giáo viên mới kiểm tra bài cũ. Nếu kiểm tra có gì không khớp với báo cáo của tổ trưởng thì sẽ có biện pháp xử phạt tổ trưởng vì chưa thực hiện đúng với sự phân công. Có như vậy trong từng tiết học mới sớm phát hiện được những học sinh lười học bài, lười làm bài tập giúp giáo viên sớm có biện pháp xử lý và tìm ra nguyên nhân cụ thể để sớm khắc phục.
Với kế hoạch kiểm tra bài tập ở nhà như trên, người giáo viên đã kiểm tra được toàn diện học sinh. Phải làm thường xuyên, liên tục mới thấy được kết quả nâng cao chất lượng rõ rệt tạo thành nếp thi đua học tập sôi nổi ở học sinh. Học sinh hứng thú học tập, giáo viên biết được các học sinh cá biệt của mình. Khi trở thành thói quen, giáo viên làm việc rất nhẹ nhàng nhưng đạt hiệu quả cao. Từ các báo cáo tổng quát đến cụ thể tình hình học tập của học sinh, giáo viên kịp thời nắm bắt được lỗ hổng của học sinh mà kịp thời sửa chữa.
Tóm lại, những kế hoạch ở lớp, kế hoạch ra bài tập về nhà đến kế hoạch kiểm tra bài tập về nhà là những suy nghĩ tìm ra phương pháp làm việc của bản thân trong thời gian qua. Với những kế hoạch đó bản thân tôi đã làm nhiều năm và thấy chất lượng dạy học tăng rõ rệt. Nhưng dù sao thì tinh thần trách nhiệm, nhiệt tình trong công tác, hăng say trong nghề nghiệp là không thể thiếu được trong quá trình giảng dạy.
Kế hoạch làm việc theo nhóm:
- Đối với giáo viên: Cần phải lập kế hoạch, chuẩn bị trước vấn đề cần thảo luận, chuẩn bị nội dung liên quan và phương tiện hỗ trợ.
Dựa vào tình hình thực tế của lớp học để có kế hoạch chia nhóm, phân tổ. Trong kế hoạc chia nhóm, cần lưu ý xen kẽ học sinh khá, học sinh trung bình với học sinh yếu. Cũng trong kế hoạc chia nhóm, có thể chia nhóm 2 – 4 – 6 – 8 tuỳ vào đặc trưng của từng môn hay tuỳ thuộc vấn đề thảo luận.
Hướng dẫn học sinh học cách thu thập các nguồn tài liệu từ sách báo, từ thư viện, từ mạng hoặc cách đánh số trang tài liệu tìm được.
- Đối với học sinh: Tích cực tham gia và làm theo hướng dẫn của giáo viên, chuẩn bị các dụng cụ, phương tiện hỗ trợ để giúp cho việc học của mình đạt kết quả cao hơn.
Tuy nhiên, bên cạnh đó các cá thể trong nhóm có thể hoạt động không đồng đều 
(giáo viên lưu ý trước các nhóm, người trình bày trước lớp của các nhóm được giáo viên lựa chọn ngẫu nhiên).
7. Kế hoạch ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong việc đổi mới phương pháp học tập của học sinh:
Mục tiêu chính của kế hoạch này là: ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong việc đổi mới phương pháp học tập của học sinh. Hướng dẫn học sinh phương pháp học tập tích cực (tức là tự học tập). Ở kế hoạch này còn nhằm mục đích khắc phục 
được hai nhược điểm của học sinh là khả năng diễn đạt và khả năng làm việc theo nhóm.
Ở kế hoạch này đòi hỏi giáo viên phải là người tiếp thu những phương tiện mới trong dạy học cụ thể là máy vi tính, máy chiếu, giáo án điện tử, biết truy cập Internet tìm kiếm thông tin phục vụ cho công tác giảng dạy. Giáo viên tăng cường giám sát tính tự học của học sinh thông qua kế hoạch làm việc của các nhóm, cách thức làm việc của các nhóm đã khoa học chưa ? Còn học sinh là người tự giác tích cực trong trong việc học của mình để chiếm lĩnh kiến thức, nâng cao kiến thức cho bản thân.
8. Kế hoạch phối hợp giữa giáo viên bộ môn với giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ môn với gia đình trong quá trình giáo dục đào tạo:
Việc phối hợp giữa giáo viên bộ môn với giáo viên chủ nhiệm trong công tác dạy học cũng là điều cấn thiết. Giáo viên bộ môn phải trao đổi với giáo viên chủ nhiệm những học sinh cá biệt, học sinh lười để cùng hợp tác kiểm điểm, nhắc nhở, xử phạt; dùng đủ hình thức từ mềm dẽo đến cứng nhắc sao cho các em sửa chữa tiến bộ dần đà theo cả lớp. Cũng thông qua giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ môn mới nắm được tình hình gia đình của những em cá biệt có hoàn cảnh khó khăn, gia đình buông lỏng hay ảnh hưởng của bạn bè xunh quanh  để có biện pháp phù hợp với từng hoàn cảnh khác nhau mang lại hiệu quả giáo dục cao hơn. 
Giáo viên chủ nhiệm cũng có trách nhiệm trao đổi với giáo viên bộ môn những học sinh cá biệt ở lớp mình, những học sinh có hoàn cảnh khó khăn  để giáo viên bộ môn nắm bắt được tình hình trước, có cách xử lý khéo là liều thuốc chữa bệnh có hiệu quả nhất mang lại kết quả nhanh nhất.
Còn vấn đề phối hợp giữa gia đình học sinh và nhà trường cũng không thiếu được; cụ thể là giữa giáo viên bộ môn, giáo viên chủ nhiệm và gia đình. Giáo viên có trách nhiệm báo về gia đình kịp thời những sai sót, bê tha  của học sinh cho gia đình biết. Từ đó gia đình cho biết ý kiến, giáo viên mới dò theo ý đó mà xử lý phù hợp. Những trường hợp vi phạm quá mức có thể báo cáo với chính quyền địa phương để xử lý như: nghiện hút, chích hêrôin  
Tất cả những kế hoạch phối hợp nêu trên giúp chúng ta giáo dục các em một cách toàn diện. Phải có mối liên kết với nhau giữa tất cả các giáo viên bộ môn, giáo viên chủ nhiệm và gia đình đó là phương pháp đánh bao vây vào một mục tiêu, chỉ có con đường bị tê liệt và hòa vào quỹ đạo. Buộc các em phải cố gắng vươn lên trong học tập bên cạnh đó có sự giúp đỡ của bạn bè, của thầy cô giáo, việc học trở thành rất cần thiết cho các em mang lại nhiều điều thú vị và bổ ích.
IV. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU:
- Khi chưa áp dụng chuyên đề đã nêu trên, học kì I môn Toán ở khối 7 năm học 2006 – 2007 đạt kết quả như sau:
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Kém
2,3%
14,2%
28,2%
29,4%
25,9%
- Sau khi áp dụng chuyên đề này thì kết quả học kì I môn Toán khối 7 năm học 2007 – 2008 đạt kết quả như sau: 
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Kém
7,2%
25,3%
39,8%
24,1%
3,6%
C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ: 
 I. Kết luận:
Trong tình hình chất lượng học sinh hiện nay tất cả các môn nói chung và môn Toán nói riêng, học sinh yếu kém càng ngày càng nở ra, học sinh khá giỏi càng ngay bị co lại. Là người giáo viên đứng trước tình hình đó phải trăn trở suy nghĩ tìm nguyên nhân chính, cơ bản dẫn đến kết quả nêu trên, để có biện pháp thích đáng, hữu hiệu, tìm ra giải pháp tối ưu nhất để nâng dần chất lượng, đảm bảo yêu cầu của cấp trên.
Theo tôi nghĩ việc nâng cao chất lượng dạy học không thể chỉ xét đến một mặt nào đó mà phải nhìn trên quan điểm toàn cục, đồng bộ trên mọi mặt. Về phía giáo viên phải có sự nhiệt tình, phải có năng lực, phải có đầu tư cao cho từng tiết dạy. Về phía học sinh đã đi vào quỹ đạo nội quy, trật tự, kỉ cương của lớp học, của nhà trường hay chưa ? Một điều cần thiết trước tiên để dạy đạt chất lượng là phải xây dựng một tập thể lớp có tổ chức, có kỉ cương, tất cả các thành viên đều hoạt động theo quỹ đạo đó. Nếu một phần tử nào đó chưa hòa mình vào quỹ đạo kịp cũng buộc đầu quay theo quỹ đạo để trở thành một lớp học có nề nếp, im lặng, trật tự. Giáo viên vào lớp tự nhiên thấy hứng thú, hưng phấn, say mê trong công tác dạy học của mình.
Trong thời gian tới bản thân sẽ cố gắng thực hiện đầy đủ, nhiều hơn nữa những gì đã trăn trở trước tình hình chất lượng môn Toán hiện nay. Làm sao các em đều học được môn Toán, môn Toán trở thành một môn học rất gần gũi với các em. Các em không ngại giải bài tập, xem đó là khâu thực hành cần thiết để giúp các em phát triển tư duy, trí tuệ, tính chịu khó, cần cù, làm đến nơi đến chốn không bỏ dở giữa chừng. Tính suy luận logic, chính xác, chặt chẽ là cơ hội để rèn luyện bản thân, rèn luyện nhân cách của con 
người bước vào tương lai đầy niềm tin và hy vọng. 
	II. Kiến nghị: 
Đối với phụ huynh học sinh cần quan tâm hơn nữa về việc học tập của con em mình.
Thường xuyên kiểm tra việc học của con em mình thông qua việc học ở nhà và thông qua điểm của các bài kiểm tra.
Đối với nhà trường: Tham mưu cho phòng giáo dục tạo điều kiện cho các em có một phòng thư viện để hỗ trợ tài liệu giúp các em trong việc học.
Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào trong dạy học là một việc làm cần thiết và cấp bách đặt biệt hỗ trợ dạy môn hình học. Do cơ sở vật chất nhà trường còn thiếu thốn, nhà trường có thể tham mưu phòng giáo dục hỗ trợ giúp đỡ nhà trường có một đầu máy chiếu để phục vụ cho việc dạy của giáo viên và việc học của học sinh. 
Tuy nhiên với trình độ tay nghề còn non trẻ, chuyên đề còn nhiều sai sót, khiếm khuyết. Rất mong sự thông cảm và chân thành góp ý của các thành viên trong tổ Tự nhiên, của BGH nhà trường để tôi hoàn thiện chuyên đề này hơn. 
KonTum, ngày 15 tháng 03 năm 2008
 Người viết 
 Trần Lê Ánh Nguyệt 
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
Sách Phương pháp dạy học môn Toán ( Dành cho GV THCS) – Nhà xuất bản giáo dục.
SGK Toán 7 – Của nhà xuất bản giáo dục.
Sách giáo viên Toán 7
Tài liệu về ứng dụng công nghệ thông tin vào trong giảng dạy bộ môn Toán.
Một số tài liệu khác có liên quan.
MỤC LỤC
 Trang
 A. PHẦN MỞ ĐẦU 2 
 B. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
	I. THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH 4
II. TỒN TẠI VÀ NGUYÊN NHÂN 4
III. BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG 5
 MÔN TOÁN 7 CHO HỌC SINH
 1. Dạy nâng cao chất lượng môn Toán để phát 5 
 triển tư duy, trí tuệ. Học sinh học tốt môn Toán 
 là điều kiện thuận lợi để học tốt các môn học khác.
 2. Rèn luyện hạnh kiểm cho học sinh, dạy kiến thức 6
 nói chung và kiến thức toán học nói riêng là hai
 vấn đề có quan hệ tác động qua lại lẫn nhau trong 
 quá trình giáo dục đào tạo.
3. Kế hoạch dạy ở lớp. 6
4. Kế hoạch ra bài tập về nhà. 11
5. Kế hoạch kiểm tra bài tập về nhà. 11
6. Kế hoạch làm việc theo nhóm. 12
	7. Kế hoạch ứng dụng công nghệ thông tin 13
 và truyền thông trong việc đổi mới phương
 pháp học tập của học sinh.
8. Kế hoạch phối hợp giữa giáo viên bộ môn 13
 với giáo viên chủ nhiệm, giữa giáo viên 
 bộ môn với gia đình trong quá trình giáo dục đào tạo.
	IV. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 14
 C. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 14
 D. TÀI LIỆU THAM KHẢO 16

File đính kèm:

  • docSKKN nang cao chat luong mon toan 7.doc
Sáng Kiến Liên Quan