Biện pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho học sinh trường THCS Ninh Thuận – Thuận Châu – Sơn La

Trường THCS Ninh Thuận là một xã vùng I thuộc huyện Thuận Châu, năm học 2017 – 2018 gồm 07 lớp. Trong đó có 2 lớp 6, 2 lớp 7, 1 lớp 8 và 2 lớp 9 với tổng số 192 em học sinh. Riêng lớp 9 có 48 em học sinh. 70% học sinh trong nhà trường đều là con em dân tộc thiểu số, điều kiện hoàn cảnh gia đình còn gặp nhiều khó khăn. Việc vận động học sinh ra lớp đã khó khăn song việc tạo cho các em tâm lý “Mỗi ngày đến trường là một ngày vui” lại càng khó khăn hơn.

Thực tế ở trường THCS để nâng cao chất lượng dạy và học phải đồng thời nâng cao giáo dục đạo đức cho học sinh. Đây là hai việc làm có tác dụng tương hỗ lẫn nhau. Nhiều năm qua chất lượng giáo dục còn tồn tại một số mặt yếu kém, trong đó có vấn đề giáo dục đạo đức và phát triển nhân cách cho học sinh. Nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo.

 Vấn đề giáo dục đạo đức cho học sinh trong mỗi cấp học, mỗi bậc học ngoài

yếu tố chủ quan: Tâm sinh lý học sinh, còn yếu tố khách quan: là gia đình và môi trường xã hội, môi trường học tập do vậy, muốn giáo dục đạo đức có hiệu quả phải đi sâu nghiên cứu tìm hiểu các biện pháp phù hợp. Kết hợp với những lý luận về quản lý công tác giáo dục đạo đức cho học sinh vừa được tiếp thu tại khoá học bồi dưỡng cán bộ quản lý trường THCS nên bản thân tôi mạnh dạn nghiên cứu vấn đề: “ Biện pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho học sinh trường THCS Ninh Thuận – Thuận Châu – Sơn La”.

 

doc21 trang | Chia sẻ: thuhong87 | Lượt xem: 1628 | Lượt tải: 3Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Biện pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho học sinh trường THCS Ninh Thuận – Thuận Châu – Sơn La", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 thụ những thành quả văn hoá, nghệ thuật
	Kết quả: Qua môn lịch sử đã giáo dục cho học sinh biết bảo vệ những thành quả, biết coi trọng tình nghĩa, những giá trị văn hoá, nghệ thuật và những người đã có công bảo vệ và xây dựng đất nước. Đã hình thành trong nhân cách các em niềm tự hào dân tộc, ý trí kiên cường tự phấn đấu vươn lên có ích cho xã hội.
 * Giáo dục đạo đức, phát triển nhân cách học sinh trong giảng dạy môn Ngữ văn
	Cùng với tất cả các bộ môn khác trong nhà trường, môn Ngữ văn cũng đảm đương nhiệm vụ hình thành cho học sinh những phẩm chất đạo đức, những tư tưởng, tình cảm tốt đẹp, có lòng nhân ái, biết lẽ phải, sự công bằng, căm gét cái xấu, cái ác, trở thành con người có bản lĩnh, có tư duy sáng tạo. Có năng lực cảm thụ cái đẹp, cái hay, cái tốt trong lời ăn tiếng nói, trong văn học nghệ thuật, có năng lực thực hành kỹ năng sử dụng Tiếng việt như một công cụ giao tiếp, tư duy.
	Các em cũng cần phải là những con người có lòng thiết tha, ham muốn đem 
hết tài trí của mình cống hiến cho sự nghiệp xây dựng một nước Việt Nam phát triển theo yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
	Quá trình giảng dạy môn Ngữ văn giáo viên giúp học sinh hiểu được những tác phẩm, những đoạn văn, những câu tục ngữ, ca dao, những câu châm ngôn  chọn lọc nói về tình yêu quê hương đất nước, về lòng nhân ái, lòng tự hào dân tộc của nhân dân ta. Các em sẽ được tiếp xúc với những giá trị tinh thần phong phú và hết sức đặc sắc về văn hoá, về cảnh vật, về cuộc sống, về con người trong các tác phẩm và ngữ điệu ấy.
	Ngoài những nội dung, ngôn từ, cần khai thác, giáo viên giúp học sinh hiểu biết thêm về tự nhiên, xã hội, con người, những kinh nghiệm xử thế đã được những người đi trước đúc kết, ghi lại trong những tác phẩm, đoạn văn. Đây chính là mục đích giáo dưỡng của bộ môn.
	Ví dụ: Những câu ca dao: “ Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn” hay “ Nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước thì thương nhau cùng” hoặc “ Tháp mười đẹp nhất bông sen, Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ” và những dòng thơ “ Tiếng suối trong như tiếng hát xa / trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa / cảnh khuya như vẽ người chư ngủ / chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà” của Hồ Chí Minh đâu phải chỉ là nhằm cung cấp cho các em những biện pháp tu từ, nhân hoá, so sánh, ẩn dụ, hay hoán dụ, mà trước hết đó là những bài học dạy các em về cách sống, về kinh nghiệm sống, cách xử thế về nhân cách cao cả của một con người. Nói rộng hơn đó là những bài học dạy các em về cách làm người. Chính những điều hay lẽ phải được thể hiện trong tác phẩm ấy, trong những ngữ liệu ấy sẽ tùng bước thấm dần vào máu thịt của các em, nuôi dưỡng tư tưởng và tình cảm của các em, giúp các em trưởng thành và trở nên những con người biết sống có lý tưởng tốt đẹp hơn, nhân ái hơn.
	Trong việc dạy Văn và Tiếng việt giáo dục thẩm mỹ cho học sinh được thể hiện một cách tương đối thuận lợi. Tiếng nói và chữ viết của chúng ta luôn phản ánh tâm hồn, cốt cách, bản lĩnh, suy nghĩ và việc làm của dân tộc Việt Nam. Trong những tác phẩm ngữ liệu có tính tư tưởng cao góp phần không nhỏ giúp cho việc hình thành ở các em những tình cảm tốt đẹp, những hành động trong sáng. Qua phân tích tác phẩm, ngữ liệu, các em phân biệt được cái tốt cái xấu, cái hay cái dở, cái thực và cái giả, cái tích cực và cái tiêu cực. Việc tiếp xúc với các giá trị tinh thần, thẩm mỹ chân chính của con người Việt Nam, của nhân loại sẽ giúp các em dần dần có được những tình cảm, cảm xúc, thái độ, thị hiếu thẩm mỹ lành mạnh. Các em hiểu một cách sâu sắc hơn các giá trị tinh thần, tự nâng cao năng lực cảm thụ cái đẹp của bản thân mình, từ đó thấy mình vươn lên, phải hành động theo sự định hướng của cái đẹp. Các em tự biết cách học tập, lao động, sinh hoạt xử thế với tất cả mọi người xung quanh như thế nào để đúng với quan niệm về cái đẹp mà các em đã nhận thức được trong các giờ học. Dạy Ngữ văn giáo viên phải giúp học sinh hiểu được những sắc thái tinh tế, cảm nhận và thưởng thức vẻ đẹp của ngôn từ trong lời nói hàng ngày. Các em phải biết đấu tranh với bản thân và những người xung quanh trong việc giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt. Phải cho các em nhận thức được rằng nói lời hay là thể hiện nếp sống văn minh, lịch sự, biết tôn trọng người khác và tôn trọng mình. Nói rộng hơn đó chính là một nét đẹp trong đời sống, trong đạo đức, nhân cách của con người hiện đại. Muốn vậy, giáo viên phải gương mẫu trong lời ăn tiếng nói của mình. Một mặt lời giảng của giáo viên phải mang tính văn hoá, tính chuẩn mực, mặt khác phải thể hiện được tình cảm trân trọng, yêu quý của mình đối với tiếng mẹ đẻ. Khi giáo viên phân tích cái hay, cái đẹp của một từ, một câu, một nhân vật, một tác phẩm đó cũng là lúc giáo viên tuyên truyền đến cho các em những nét đẹp trong tâm hồn, trong tư tưởng tình cảm của con người Việt Nam và chính giáo viên cũng phải tự mình phấn đấu nói sao cho trong sáng.
	Có thể khảng định rằng: môn Ngữ văn có nhiều lợi thế trong việc giáo dục đào tạo nhân cách cho học sinh. Mỗi câu văn câu thơ được dẫn trong bài học tiếng việc, mỗi tác phẩm được phân tích trong các giờ văn không phải chỉ đẹp chỉ hay về ngôn từ, hình tượng mà còn ý nghĩa giáo dục sâu sắc, gây được cho các em những cảm xúc thẩm mỹ, những dung động tâm hồn đậm đà, thấm thía. Qua mỗi giờ học các em thêm yêu, trân trọng hơn những di sản tinh thần mà cha ông ta để lại, thêm gắn bó hơn với quê hương đất nước, từ đó thấy mình phải sống sao cho tốt đẹp hơn.
1.3. Giáo dục truyền thống đạo đức cho học sinh qua các hoạt động ngoại khoá
	Hoạt động ngoại khoá trong nhà trường là một trong những con đường hữu hiệu để giáo dục đạo đức và phát triển nhân cách học sinh. Tuy nhiên hoạt động ngoại khoá phải được tổ chức hợp lý, cho phép huy động tối đa lực lượng học sinh tham gia, tạo cơ hội cho học sinh tiếp xúc trực tiếp, tham gia trực tiếp vào hoạt động, tạo điều kiện cho học sinh phát huy cao nhất khả năng sáng tạo, óc thẩm mỹ, giúp các em tự khảng định mình với tư cách là một chủ thể sáng tạo, chủ thể thẩm mỹ.
	Ví dụ: Tổ chức hoạt động ngoại khoá “ Chào mừng ngày nhà giáo Việt Nam 20 – 11”.
	Trước hết là định hướng hoạt động; phát động phong trào thi đua “ Em đã biết gì ? Làm gì để chào mừng ngày nhà giáo Việt Nam 20 – 11”. Đối với giáo viên chủ nhiệm và giáo viên các bộ môn: Văn, Âm nhạc, Mỹ thuật đưa vào giờ lên lớp của mình các nội dung giáo dục theo chủ đề ngày nhà giáo Việt Nam ( Lịch sử và ý nghĩa của ngày 20 – 11) giới thiệu tư liệu cho học sinh, tổ chức cho học sinh lựa chọn, tham gia vào các hoạt động ở nhiều loại hình phong phú nhằm cung cấp tri thức và các dữ kiện thực tế. Với học sinh tổ chức thảo luận, giới thiệu các tư liệu đã sưu tầm: Phân công các thành viên trong lớp theo hứng thú và khả năng vào các nhóm: làm báo tường, tập san, trang trí, văn nghệ và tổ chức thực hiện.
	Sau đó tổ chức chào mừng ngày 20 – 11 thông qua trình bày sản phẩm của từng nhóm: nhóm trang trí, nhóm báo tường ( giới thiệu ý nghĩa lịch sử ngày 20 -11); học sinh đọc lời chúc mừng và tặng hoa thầy giáo, cô giáo nhân ngày 20 – 11; biểu diễn văn nghệ, phát biểu cảm tưởng)
	Cuối cùng: thi báo tường hoặc tập san của lớp, của trường và tặng báo tường, tập san cho phòng truyền thống của nhà trường.
	Hoạt động trên tổ chức ở từng lớp, từng khối, lựa chọn vào chung kết đúng 
ngày 20 – 11 ở quy mô trường. Tổ chức cho học sinh hoạt động chủ động, sáng tạo và thể hiện được những khả năng tiềm ẩn của mình. Đặc biệt là phát triển được giá trị đạo đức thẩm mỹ trong các em.
	Về nghệ thuật: có cảm xúc và có thêm hiểu biết về âm nhạc, mỹ thuật, sân khấu, nghệ thuật trang trí, cắm hoa trong lĩnh vực khoa học: có thêm hiểu biết với các môn học, ý nghĩa và lịch sử ngày nhà giáo Việt Nam. Lĩnh vực đạo đức: hiểu biết thầy cô, bạn bè, có tình đoàn kết trong tập thể, có tình cảm tốt đẹp với thầy cô giáo trong nhà trường, có niềm vui, lối sống đẹp trong giao lưu với bạn bè, để lại nhiều ấn tượng tốt đẹp trong tâm tư tình cảm của các em.
	Các đoàn thể trong trường phối hợp tổ chức tốt các hoạt động văn hoá văn nghệ, thể dục thể thao và các hoạt động xã hội khác nhân các ngày lễ lớn như: 22/12, 3/2, 26/3, 30/4, 19/5 Tổ chức lễ ra quân phòng chống ma tuý, tệ nạn xã hội, luật an toàn giao thông. Tổ chức hòm thư góp ý để ngăn ngừa những hành vi vi phạm trong trường học.
	Kết quả: Thông qua hoạt động ngoại khoá đã góp phần không nhỏ trong giáo dục đạo đức cho học sinh, tạo cho các em luôn có niềm vui, lối sống đẹp, tình tương thân tương ái hướng tới môi trường xã hội tốt đẹp hơn.
1.4. Kết hợp chặt chẽ với gia đình, các đoàn thể, chính quyền và địa phương trong giáo dục đạo đức cho học sinh.
	Gia đình là nơi quản lý học sinh và cùng với nhà trường thực hiện nội dung giáo dục, giúp cho các em có những định hướng giá trị đúng trong cuộc sống từng ngày từng giờ diễn ra rất phong phú và thậm chí cả những phức tạp trong xã hội.
	Những điều hay lẽ phải cần được các bậc cha mẹ trao đổi hàng ngày. Điều đó có tác động mạnh mẽ đến học sinh, giúp các em nhận thức ra các giá trị xã hội cần vươn tới cái hay, lên án, loại bỏ cái xấu xa thấp hèn. Học sinh được hình thành các nét tính cách, các phẩm chất và năng lực khác nhau đã thực sự bắt nguồn từ các chuẩn mực đạo đức của chính các ông bố, bà mẹ. Hành vi của các em lại được chính các bậc cha mẹ theo dõi, uốn ắc. Không có ông bố, bà mẹ nào lại không hiểu rõ con mình. Chỉ có điều khác nhau là các biện pháp động viên, uốn ắc nhắc nhở của các bậc cha mẹ kịp thời, cương quyết và hiệu quả đến mức nào. Đối với học sinh thuộc diện cần phải thực hiện các tác động giáo dục cá biệt thì vai trò của gia đình lại càng đặc biệt quan trọng.
	Gia đình là nơi thực hiện sự phối hợp tốt nhất với nhà trường. Chỉ khi nào có sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường và gia đình thì giáo dục học sinh mới đạt được hiệu quả nhất định. Trong điều kiện hiện nay nội dung giáo dục gia đình đối với học sinh cần tiến hành toàn diện trên tất các mặt trí dục, đức dục, thẩm mỹ và giáo dục giới tính. Tuy nhiên ở đây tôi chỉ đề cập đến nội dung đạo đức. Giáo dục đạo đức trong gia đình cần được chú ý các khía cạnh bản sắc văn hoá truyền thống dân tộc phải được coi trọng hàng đầu. Bên cạnh đó gia đình cần phải chủ động giúp học sinh có khả năng phân biệt đúng, sai về các sự kiện, hiện tượng xảy ra trong cuộc sống xã hội. Giúp các em có những định hướng đúng đắn, xử lý kịp thời hình thành tốt các kỹ năng, kỹ sảo, hành vi đạo đức.
	Ngoài những điều học sinh được học ở trường, tại gia đình các em cần được giáo dục và điều quan trọng hơn là được thực hành về cách ứng xử để hình thành các thói quen hành vi đạo đức cụ thể.
	Trong gia đình cha mẹ cần lưu ý: Đừng bao giờ tranh cãi với con mình, đừng bao giờ so sánh con mình với bạn của chúng, hãy yêu mến và vui lòng với đứa con mình đang có. Cần có sự tin cậy lẫn nhau giữa bố mẹ và con cái. Không đánh đập các em, tránh bảo ban dạy dỗ vào bữa ăn. Đừng bạ lúc nào cũng phê phán, trỉ trích chúng. Để các em tự do tìm bạn song hướng các em tìm bạn có tính cách bổ sung cho nhau như: rụt rè kết bạn với em mạnh dạn, sự ảnh hưởng lẫn nhau là điều rất có lợi. Cần để các em thấy mình luôn luôn được bố mẹ ở bên cạnh chứ không phải đứng đằng sau chúng hoặc sống thay cho chúng.
	Đừng nghĩ ràng con mình thuộc loại “ khó dạy” chẳng qua là ở lứa tuổi THCS các em phải có những vấn đề riêng cần giải quyết và trên hết là cha mẹ cũng phải nắm được những tri thức cần thiết để giáo dục con, gia đình phải thực sự sống
có văn hoá mẫu mực, trong đó cha mẹ phải là những tấm gương nhân cách mẫu 
mực giúp các em noi theo.
Thường xuyên có mối liên hệ với đoàn thể, chính quyền địa phương để học tập ở họ những kinh nghiệm trong giáo dục đạo đức công dân. Đồng thời nhờ giúp đỡ khi thực hiện các chuyên đề ngoại khoá: Mời cựu chiến binh nói chuyện nhân ngày thành lập quân đội nhân dân Việt Nam ( 22/12) mời các đồng chí công an về phổ biến, hướng dẫn những quy định, biển báo trật tự an toàn giao thông công cộng Đặc biệt là trong các dịp hè, bàn giao học sinh về hoạt động ở địa phương để học sinh có sự quản lý, tổ chức giáo dục trực tiếp, liên tục, kịp thời của địa phương. Đối với học sinh cá biệt, địa phương quan tâm giúp đỡ và sau hè có nhận xét, đánh giá sự tiến bộ của từng em.
Kết quả: Kết hợp chặt chẽ với gia đình, các đoàn thể, chính quyền và địa 
phương trong giáo dục đạo đức cho học sinh, là một trong những biện pháp quan trọng góp phần hình thành nhân cách các em tích cực hơn, có hiệu quả cao, biết sống có mục đích có lý tưởng và sống có ích cho gia đình, xã hội và bè bạn.
1.5. Giáo dục cá biệt, nêu gương điển hình.
	Học sinh được coi là cá biệt khi có những biểu hiện như: không vâng lời, 
đỏng đảnh, bướng bỉnh, vô kỷ luật, gây gổ, lười biếng, đối trá, gian lận, dễ xúc động, dễ giận hờn, dễ tổn thương hoặc tự cao, không biết tự kiềm chế,  các biểu hiện trên hoặc các hành vi trên được lặp đi lặp lại nhiều lần, khó sử chữa, tiếp nhận sự giáo dục, uốn ắn của gia đình và nhà trường rất khó khăn Số học sinh này tỉ lệ trong phạm vi thường không nhiều, song nhà trường đã kết hợp chặt chẽ cùng giáo viên chủ nhiệm và gia đình có những nội dung giáo dục thống nhất và phù hợp với đặc điểm cá biệt của từng em. Tất cả đều đảm bảo nguyên tắc chung trong giáo dục các em là: Xây dựng niềm tin trong các em, khuyến khích các em có những việc làm tốt, tuyên dương kịp thời, đồng thời phải nghiêm khắc trách phạt các em khi các em đáng phải thế. Tác động mạnh để phá vỡ, xoá đi những thái độ sai lầm, khơi gợi trong các em những hứng thú, sở trường, khả năng đặc biệt, tạo điều kiện để các em có cơ hội thể hiện tài năng của mình.
Đưa ra các chuẩn mực trong thực hiện nề nếp, kỷ luật, lối sống trong tập thể, 
quan sát hàng ngày, đánh giá hàng tuần. Tìm ra những học sinh rèn luyện tốt, tu dưỡng đạo đức tốt để nêu gương trong tuần, trong tháng, trong kỳ.
	Giúp các em hướng tới việc tu dưỡng, rèn luyện theo chuẩn mực đạo đức, rèn luyện đạo đức theo gương bạn tốt, biện pháp này có tác dụng đặc biệt tốt với những học sinh hạnh kiểm khá vươn lên tốt.
	Tin tưởng giáo dục bằng cách giao việc cho các em để các em được thấy mình có ích cho người khác, cho tập thể, khuyến khích động viên các em khi các em hoàn thành, với những học sinh này có thể giao cả ciệc khó vì các em thích hoạt động, ưa hoạt động nếu những việc dễ các em hoàn thành tốt.
	2. Ưu, nhược điểm của giải pháp mới:
a. Ưu điểm:
Thông qua việc nhận thức, qua các môn học trên lớp với sự kết hợp các đoàn thể, ban ngành, hội cha mẹ học sinh và chính quyền địa phương đã không ngừng nâng cao giáo dục đạo đức cho học sinh cụ thể qua một năm học đã thu được kết quả khả quan sau:	
Thời gian
Sĩ số
Xếp loại hạnh kiểm
Tốt
Khá
Trung bình
Yếu kém
Kỳ I
173
90
63
18
2
Kỳ II
173
100
63
10
0
Cả năm
173
100
63
10
0
So học kỳ II và cả năm với học kỳ I và chỉ tiêu đề ra của năm học 2016 – 2017 như sau:
	Học sinh hạnh kiểm tốt tăng: 20%
	Học sinh hạnh kiểm trung bình giảm: 16.6%
	Học sinh hạnh kiểm yếu: Không còn
Điều quan trọng là học sinh của trường có nề nếp, kỷ cương, học tập, chuyên cần, thẳng thắn trung thực trong học tập và cuộc sống.
Các em vui chơi hoạt động với tất cả khả năng có được mình. Biết kính thầy mến bạn, tôn trọng các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, yêu trường, nhớ lớp, mến bạn, hăng hái tham gia lao động xây dựng và bảo vệ trường lớp xanh - sạch - đẹp. Biết tôn trọng pháp luật, giữ gìn an ninh trật tự trường học. Số học sinh cá biệt giảm hẳn trong một học kỳ và trong cả năm học.
b. Nhược điểm: 
- Một số ít học sinh ý thức học tập, đạo đức chưa cao, chưa thực sự có ý thức trong các mối quan hệ giữa thầy cô và bạn bè; vẫn cón một số em cãi lại thầy cô giáo, nói tục, chửi bậy.
- Hiện nay do tác động của nền công nghệ thông tin phát triển, có không ít phụ huynh mua điện thoại cho con em mình sử dụng dẫn đến một số tiêu cực và đạo đức bị suy thoái vì ảnh hưởng của mạng xã hội, các em bắt chước những thói hư tật xấu lan truyền trên mạng Internet 
III. Khả năng áp dụng của sáng kiến
- Tôi đã áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này vào giáo dục học sinh toàn trường năm học 2016-2017 và năm học 2017-2018 với các giờ ngoại khóa, hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp.
- Lĩnh vực áp dụng: Giáo dục
- Điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: Để áp dụng được sáng kiến vào giảng dạy:
+ Trước hết giáo viên cần đề ra kế hoạch cụ thể;
+ Tiến hành điều tra khảo sát các khối học sinh ttrong toàn trường để phân loại đối tượng học sinh và có biện pháp nghiên cứu cho phù hợp. 
+ Khảo sát điều kiện giáo dục đạo đức của học sinh đối với bộ môn. 
- Phạm vi áp dụng của sáng kiến: Sáng kiến được áp dụng tại trường THCS Ninh Thuận. Thông qua các buổi ngoại khóa và hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp. Sau đó đối chiếu kết quả vào cuối học kì, năm học.
IV. Hiệu quả, lợi ích thu được khi áp dụng giải pháp.
1. Hiệu quả kinh tế
Qua một thời gian áp dụng sáng kiến: “Biện pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho học sinh trường THCS Ninh Thuận – Thuận Châu – Sơn La” với các giải pháp đề ra, tôi nhận thấy: việc giáo dục đạo đức cho học sinh qua các buổi ngoại khóa đạt kết quả khá cao, tiết kiệm thời gian chuẩn bị các thiết bị, đồ dùng, tiết kiệm được chi phí (do sử dụng công nghệ thông tin nên có thể khai thác tranh ảnh trên mạng Internet giáo dục các em tốt hơn, có ý thức hơn trong mọi hoạt động).
2. Hiệu quả xã hội:
Qua thời gian áp dụng đề tài, tôi nhận thấy sự tiến bộ rõ rệt của học sinh, đặc biệt các em có ý thức hơn, ngoan hơn.
PHẦN KẾT LUẬN
* Bài học kinh nghiệm:
	Muốn giáo dục đạo đức cho học sinh trung học cơ sở có kết quả cần:
	1. Có sự thống nhất cao trong tập thể sư phạm nhà trường những nội dung cần giáo dục học sinh và giáo dục các em dựa trên cơ sở đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi.
2. Kết hợp tốt việc giáo dục đạo đức trong giảng dạy các môn văn hoá với 
giáo dục ngoài giờ lên lớp và hoạt động xã hội.
	3. Kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục nhà trường với giáo dục gia đình và giáo dục của các đoàn thể ở địa phương.
	4. Khéo léo, kiên trì và có biện pháp phù hợp giáo dục cá biệt.
	5. Có những quy định và chuẩn mực cụ thể trong nhà trường về tư cách đạo đức học sinh. Theo dõi sát sao những biểu hiện và hành vi đạo đức của các em, khen thưởng kịp thời những việc làm hướng thiện và những hành vi lệch chuẩn.
	Giáo dục đạo đức học sinh ở trường nói chung và ở trường THCS nói riêng là việc làm đầy khó khăn phức tạp, đòi hỏi phải có sự kết hợp đồng bộ các lực lượng giáo dục và công tác này phải tiến hành kiên trì, bền bỉ, lâu dài, liên tục. Muốn vậy nhà trường phải có đội ngũ giáo viên vững vàng về chuyên môn nghiệp vụ, có đạo đức phẩm chất tốt, có lối sống trong sáng lành mạnh để có đủ khả năng thường xuyên chăm lo, đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện cho học sinh phát triển nhân cách một cách toàn diện.
	Nhà trường cố gắng thôi chưa đủ! Cần có sự góp sức của cộng đồng, cần có sự tạo điều kiện về cơ sở vật chất của nhà nước.
Trí tuệ của con người luôn phát triển và vươn tới những đỉnh cao khoa học, tình cảm, đạo đức, nhân cách con người cũng do vậy mà tiến trước một bước dài.
	Chúng tôi mong muốn được đóng góp nhiều hơn nữa cho việc quản lý chuyên môn nhằm nâng cao chất lượng dạy và học, nâng cao hiệu quả cho mục tiêu phát triển con người ( phát triển nguồn nhân lực) trong xã hội hiện đại đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
* Cam kết không sao chép hoặc vi phạm bản quyền
Tác giả cam kết sáng kiến này là do tác giả thực hiện. Không sao chép hoặc vi phạm bản quyền của các tổ chức cá nhân nào. Tôi xin cam đoan mọi thông tin nêu trên là trung thực, đúng sự thật và hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ/ CƠ QUAN
Ninh Thuận, ngày 20 tháng 9 năm 2017 Người viết sáng kiến
Lưu Thanh Long
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ VIII
Luật giáo dục
Điều lệ trường phổ thông
Quy chế 58 - hướng dẫn xếp loại 2 mặt giáo dục cho học sinh THCS
Bản chất quá trình dạy học
Giáo dục trẻ em
Quản lý quá trình dạy học ở trường phổ thông
Mục tiêu chương trình hoạt động của Sở giáo dục và đào tạo Sơn La
Những tình huống ứng xử sư phạm

File đính kèm:

  • docsang kien kinh nghiem_12441578.doc
Sáng Kiến Liên Quan